Trở về   Yên Thành Online > Khu vui chơi giải trí, giao lưu gặp mặt > Teen Yên Thành

Chào mừng bạn đến với Yên Thành Online.
»» Diễn đàn Người Yên Thành được xây dựng để tạo một gặp gỡ online cho tuổi trẻ Yên Thành, xa quê cũng như đang ở nhà. Mục đích chính là giúp mọi người hiểu biết thêm về Yên Thành, thêm yêu Yên Thành hơn, cũng như để anh chị em ở xa vơi đi phần nào nỗi nhớ nhà

»» Diễn đàn hiện nay mới đang trong thời gian thử nghiệm và phát triền nội dung, vì vậy rất cần sự đóng góp tài liệu, bài vở và ý kiến từ anh chị em và các bạn. »>Nhấn vào đây để bắt đầu tham gia và đóng góp


Diễn đàn đã ngưng hoạt động từ lâu.
Anh chị em có nhu cầu kết nối có thể tham gia group Yên Thành & những người thân trên Facebook.

Trả lời
 
Ðiều Chỉnh Xếp Bài
  #1  
Cũ 01-04-2009, 11:27 PM
APOLONG's Avatar
APOLONG APOLONG is offline
Điều Hành Viên
 
Tham gia: 14/11/2008
Họ và tên: Apolong
Bài viết: 677
Xã: Tình khác
Gửi tin nhắn qua Yahoo chát tới APOLONG
Default [Truyện Kinh Dị] - Vũ Điệu Quỷ - [+15]

†...[Truyện Ma Kinh Dị]...†

Vũ Điệu Quỷ


Tác Giả: Jonathan Kellerman




Đó là một nơi đáng sợ và huyền bí, nơi của những phép ma và những thất bại tồi tệ nhất.
Tôi đã dành một phần tư cuộc đời sống ở đó, học cách đối phó với sự đơn điệu, điên rồ.
Năm năm không tới đã biến tôi thành một kẻ lạ mặt, và khi bước vào hành lang của khu nhà, lòng tôi thấy bồn chồn khó tả.
Những cánh cửa kính, sàn nhà lát đá granit đen bóng, những bức tường hình lòng chảo có tên của các Mạnh Thường Quân đã qua đời.
Đây đúng là cái trạm hào nhoáng cho một chuyến du hành bất tận không người hướng dẫn.
Bên ngoài là mùa xuân nhưng ở đây thời gian có một ý nghĩa khác.
Có một nhóm các phẫu thuật sinh thực tập rất trẻ đang lững thững đi qua tôi trên những đôi dép đế dày của các bác sĩ phụ mổ, trông họ mệt mỏi vì phải làm ca kép. Đôi giày đế da của tôi kêu lộp cộp khi bước đi trên nền đá hành lang.
Sàn hành lang trơn và lạnh như sân băng. Hồi tôi bắt đầu làm bác sĩ thực tập ở đây thì nó mới được lát đá. Tôi nhớ lại những vụ phản đối. Nhiều lá đơn phản ánh sự bất hợp lý của sàn đá, ở nơi mà trẻ con thường chạy nhảy, nô đùa và đẩy xe lăn. Nhưng một số nhà nhân chủng học lại thích kiểu dáng của sàn đá. Thời đó, nhân chủng học là lĩnh vực đang được ưa chuộng.
Sáng nay, diện tích mặt sàn đá không còn trống nhiều, một đám đông đang chen lấn khắp hành lang, phần lớn có nước da đen, mặc quần áo rẻ tiền, xếp thành hàng dài tại những chiếc quầy có thành làm bằng kính và chờ đợi ân huệ của mấy thư ký mặt lạnh như tiền. Mấy thư ký luôn tránh nhìn vào mắt các bệnh nhân và tôn thờ đám giấy msa. Dòng người dường như không hề di chuyển.
Trẻ con đứa gào khóc, đứa bú mẹ; những phụ nữ trông tiều tuỵ; mấy người đàn ông cố nuốt trôi những câu chửi rủa định phát ra khỏi miệng và nhìn không chớp mắt xuống sàn. Những người lạ mặt va vào nhau liên tục và cùng cười cầu hoà với nhau.
Một vài đứa trẻ vặn người, và vùng vằng để thoát ra khỏi cánh tay ôm của người lớn. Bọn chúng thoát ra được khoảng một hay hai giây rồi lại bị kéo trở lại. Những đứa trẻ khác xanh xao, gầy gò, hốc hác, đầu rụng hết tóc được phết lên những loai màu kỳ lạ thì đứng yên, tuân lời cha mẹ một cách đau đớn. Giọng nói lanh lảnh phát ra nghe như tiếng của một cái máy. Thỉnh thoảng có những nụ cười hay một chút vui vẻ làm sáng lên căn phòng đầy ảm đạm âm u này.
Khi tới gần hơn, một thứ mùi đặc trưng đập vào mũi tôi.
Mùi nồng của cồn rửa, vị đắng của thuốc kháng sinh, cái nhớp nháp của cồn ngọt và sự đau đớn của người bệnh.


Đó là những thứ của bệnh viện. Có nhiều thứ không hề thay đổi theo thời gian. Nhưng tôi thì đã thay đổi, đôi tay tôi lạnh toát.
Tôi vừa chen vừa đẩy mới đi qua được đám đông. Vừa khi tôi bước tới thang máy thì một người đàn ông to, khoẻ trong bộ đồng phục xanh dương của cảnh sát từ đâu đó bước ra chặn lối. Anh ta có cái đầu cắt cua quá trọc tới mức lộ cả lớp da đầu bóng láng. Khuôn mặt lưỡi cày của anh ta được trang trí bởi bộ kính gọng đen.
- Thưa, ông cần gì?
- Tôi là bác sĩ Delaware. Tôi có một cuộc hẹn với bác sĩ Eves.
- Xin ông cho xem giấy tờ.
Trong vẻ lạ lùng, tôi lôi cho anh ta xem cái phù hiệu có kẹp cài đã được làm cách đây năm năm. Anh ta cầm và xem xét rất kỹ càng như thể nó là một đầu mối để tìm ra điều gì đó. Thỉnh thoảng, anh ta ngước nhìn tôi rồi lại nhìn vào bức ảnh đen trắng chụp cách đây đã mười năm. Tay anh ta cầm chiếc máy bộ đàm. Khẩu súng ngắn nằm trong cái bao đeo ở hông.
Tôi nói:
- Hình như ở đây kiểm tra nghiêm ngặt hơn nhiều từ khi tôi rời khỏi.
- Cái này đã quá hạn rồi - Anh ta đáp - Ông vẫn còn trong danh sách nhân viên ở đây, phải vậy không?
- Đúng thế.
Anh ta cau mày và bỏ cái phù hiệu vào túi áo mình.
Tôi nói:
- Vậy là có gì đó không ổn sao?
- Thưa ông, ông cần phải có phù hiệu mới. Ông hãy đi qua cái am thờ kia tới chỗ Ban An ninh, họ sẽ chụp ảnh và cấp cho ông một cái phù hiệu mới. - Anh ta đưa tay chạm vào chiếc phù hiệu trên ve áo. Nó có một bức ảnh màu, số chứng minh bao gồm 10 con số.
- Phải mất khoảng bao lâu mới xong? - Tôi hỏi.
- Cái đó còn tuỳ thuộc, thưa ông - Anh ta đưa mắt nhìn ra chỗ khác như thể đột nhiên cảm thấy nhàm chán.
- Tuỳ thuộc vào cái gì?
- Vào có bao nhiêu người đến trước ông và liệu những giấy tờ của ông có còn hiện hành không nữa.
Tôi nói:
- Này anh, cuộc hẹn của tôi với bác sĩ Eves chỉ vài phút nữa là tới rồi. Tôi sẽ làm phù hiệu trên đường ra vậy nhé.
- Thưa ông, có lẽ không được đâu - Anh ta đáp, mắt vẫn nhìn đi đâu đó. Đôi cánh tay anh ta khoanh tròn trước ngực - Đó là quy định ở đây.
- Có phải đây là quy định mới không?
- Đã có công văn gửi theo đường thư tới đội ngũ nhân viên y tế của bệnh viện từ mùa hè trước cơ, thưa ông.
- Chắc là tôi không được đọc công văn đó mất rồi.


Nói toẹt ra là có lẽ tôi đã không mở ra xem mà lập tức ném vào sọt rác giống như hầu hết các thư từ bệnh viện gửi tới cho tôi.
Anh ta không đáp lời.
- Tôi đang rất gấp rồi anh ạ - Tôi nói - Thế nếu tôi lấy thẻ khách thăm để cho qua chuyện này thì sao?
- Thẻ khách thăm chỉ dành cho khách, thưa ông.
- Thì tôi đang đến thăm bác sĩ Eves chứ sao.
Anh ta ném ánh mắt về phía tôi. Lại một cái cau mày - lần này thì có vẻ trầm ngâm suy nghĩ. Anh ta nhìn chằm chằm vào cà-vạt của tôi,một tay đưa ra chạm vào cái bao da ở hông.
- Thẻ khách thăm thì ông tới Ban Đăng ký - Anh ta nói đồng thời ngoắc ngón tay cái về phía một trong những hàng người dày đặc.
Anh ta lại khoanh tay trước ngực.
Tôi cười:
- Vậy là không có cách nào để cho qua chuyện này sao?
- Không, thưa ông.
- Thế có đúng là qua cái am thờ kia thì tới không?
- Qua đó và rẽ phải.
- Phải chăng ở đây vừa mới xảy ra chuyện gì nghiêm trọng? - Tôi hỏi.
- Tôi không đưa ra quy định, thưa ông. Tôi chỉ là người thực thi các quy định ấy.
Anh ta nán lại một phút rồi đứng tránh sang bên, nhìn theo tôi ra khỏi hành lang. Tôi ngoặt ở góc, trong lòng vẫn nghĩ rằng anh nhân viên an ninh ấy sẽ bám theo tôi nhưng hành lang hoàn toàn trống rỗng và yên lặng.
Cánh cửa có ghi chữ Ban An ninh cách đó hai mươi bước. Một cái biển treo lủng lẳng trên núm cửa sổ có ghi Sẽ trở lại bên trên là hình đồng hồ kim chỉ vào 9 giờ 30. Theo đồng hồ của tôi lúc này mới là 9 giờ 10. Tôi cứ gõ cửa; không có ai trả lời. Tôi nhìn quay lại; không có nhân viên an ninh nào. Nhớ mang máng rằng cái thang máy dành cho nhân viên y tế của bệnh viện nằm ngay cạnh phòng Điều trị bằng phóng xạ vì thế tôi tiếp tục đi dọc theo hành lang về phía đó.
Phòng Điều trị bằng phóng xạ bây giờ đã bị đổi thành phòng Nguồn phục vụ cộng đồng. Cái cửa này cũng đóng. Thang máy vẫn còn đó nhưng những cái nút bấm thì đã biến mất. Nó đã được chuyển từ vận hành bằng nút sang vận hành bằng chìa khóa. Tôi liền tìm kiếm xem có cầu thang bộ nào gần nhất không thì một cặp hộ lý xuất hiện, tay đang đẩy cái xe trống. Cả hai hộ lý đều còn trẻ, cao lớn, da đen, tóc kiểu hip-hop rất sành điệu. Họ đang nói chuyện với nhau rất say sưa về trò chơi Raiders. Một trong số họ rút ra chiếc chìa khoá, nhét vào ổ và xoay. Cánh cửa thang máy mở ra, thành của nó được phủ một lớp bông đệm. Những giấy gói đồ ăn vặt và một mẩu bông băng bẩn vương vãi khắp sàn thang máy. Hai hộ lý đẩy cái xe vào trong. Tôi nhảy vào theo họ.


Khu Bệnh nhi tổng hợp nằm ở đầu phía Đông của tầng 5 toà nhà bệnh viện được ngăn cách với phòng Sơ sinh bởi một cánh cửa gỗ xoay. Tôi biết phòng khám ngoại trú này mới được mở cách đây 15 phút nhưng phòng đợi đã đông kín người. Người hắt hơi, người ho, những vẻ mặt đờ đẫn và sự bồn chồn lo lắng. Các bà mẹ người nắm, người ôm lấy những đứa con đủ lứa tuổi. Tay họ nắm khư khư mớ giấy ờ và những cái thẻ Medi-Cal (1) nhựa có phép màu. Bên phải cửa sổ tiếp tân là cánh cửa đôi có ghi Bệnh nhân đến đăng ký và bên dưới là một dòng chữ được viết lại với nội dung tương tự bằng tiếng Tây Ban Nha.
Tôi đẩy cửa đi vào và sải bước qua một hành lang dài màu trắng dán đầy các tấm áp phích về an toàn thực phẩm và dinh dưỡng, dọc đó là những báo chí y tế của quận và những lời hô hào viết bằng hai thứ tiếng về việc nuôi dưỡng, tiêm phòng, cai rượu và tránh xa ma tuý. Khoảng hơn chục phòng khám đang được sử dụng. Giá để bệnh án đã đầy tràn. Phía xa của hành lang là những thùng đựng hồ sơ, tủ đựng đồ tiếp tế và cái tủ lạnh được đánh dấu chữ thập đỏ. Người thư ký đang gõ vào bàn phím máy tính. Những y tá hớt hải đi lại giữa những chiếc tủ đựng đồ tiếp tế và những phòng khám. Các bác sĩ nội trú nói vào máy nói đặt cạnh cằm và đi theo những bác sĩ chính đang sải bước rất nhanh.
Bức tường nằm vuông góc với một hành lang ngắn hơn toàn là phòng của các bác sĩ. Cánh cửa phòng của Stephanie Eves vẫn mở, nó là cửa thứ ba trong số bảy cửa.
Căn phòng rộng chừng 3x3,6 mét vuông, những bức tường được sơn màu be tiêu chuẩn, cạnh đó là những giá để đầy sách vở và báo chí, h ai bức hoạ lớn sao chép của hoạ sỹ Miró và một cánh cửa sổ kính mờ nhìn ra hướng Đông. Bên ngoài đỉnh của những ngọn đồi Hollywood dường như đang tan biến trong một nồi nước xáo gồm có những tấm biển quảng cáo lớn và sương khói.
Cái bàn làm việc giả gỗ óc chó tiêu chuẩn của bệnh viện, khung mạ crôm, được đẩy sát vào tường. Chiếc ghế đẩu khung mạ crôm được bọc vải màu da cam có vẻ chắc chắn đang cố gắng chiếm lấy chút không gian với cái ghế ngả lưng màu nâu kiểu Naugahyde đã bị trầy xước nhiều chỗ. Giữa hai cái ghế này là một cái bàn để đèn nhỏ rẻ tiền, bên trên đặt cái máy pha cà phê và cây ráy thơm trong chiếc bình sành sứ màu xanh.
Stephanie ngồi tại bạn, mặc chiếc áo khoác dài trắng bên ngoài áo dài màu nâu và rượu vang đang cắm cúi viết trên mẫu nhận bệnh nhân ngoại trú. Chồng bệnh án cao tới cằm đổ bóng xuống cánh tay đang viết của cô. Khi tôi bước vào phòng, cô ngửng mặt lên nhìn rồi đặt bút xuống, miệng nở nụ cười và đứng dậy.
- Anh Alex.


Cô đã trở thành một phụ nữ khả ái. Mái tóc màu nâu xỉn một thời để dài quá vai, lúc nào cũng rối bời nay đã cắt ngắn gọn, được phủ một lớp óng ánh như sương sớm, và còn làm cho bồng bềnh như lông vũ. Cặp kính sát tròng đã thay thế cặp kính cũ, để lộ ra đôi mắt màu hổ phách mà tôi chưa từng nhìn thấy ở cô bao giờ. Thân hình của Stephanie dường như khoẻ khoắn hơn như được chạm khắc. Thời gian đx không bỏ qua cô khi cô bước sang phía tối của tuổi băm. Đôi mắt cô đã hằn những vết ch ân chim còn khoé miệng như có cái gì đó trở nên xơ cứng. Mỹ phẩm đã phần nào che được hết thảy những dấu vết của thời gian.
- Thật vui khi được gặp anh - Cô nói rồi cầm lấy tay tôi.
- Tôi cũng rất vui mừng được gặp lại cô, Steph.
Chúng tôi ôm lấy nhau trong giây lát.
- Để tôi lấy cho anh chút gì đó uống nhé? - Cô chỉ tay về phía cái máy pha cà phê, cánh tay phát ra những tiếng kêu lẻng xẻng. Mấy cái vòng mạ vàng quấn quanh cổ tay cô. Tay bên kia của Stephanie có đeo chiếc đồng hồ màu vàng. Cô không đeo nhẫn - Uống cà phê thường hay cà phê sữa nào? Cái máy này còn hâm nóng được cà phê đấy.
Tôi từ chối và nói lời cảm ơn trước khi nhìn vào chiếc máy. Đó là vật nho nhỏ đã xỉn đen, vỏ bằng thép mang biểu tượng của một nhà máy bên Đức. Bình đựng nước nhỏ nhắn chỉ chứa được hai cốc nước đầy. Cạnh bình là chiếc ấm đun bằng đồng nhỏ.
- Đẹp đấy chứ? - Stephanie nói - Đó là món quà do một người bạn tặng đấy. Chắc phải cố gắng lắm mới đưa được chút lối sống hiện đại vào nơi này.
Cô cười. Thứ hiện đại là điều mà cô không bao giờ quan tâm tới. Một cuốn sách bìa bọc da nằm trên mặt bàn cạnh đó. Tôi cầm lấy cuốn sách lên xem. Đó là tuyển tập thơ của thi sĩ Byron. Trên cuốn sách có dán nhãn của cửa hàng mang tên Browers - địa chỉ ở đường Los Feliz, ngay phía trên Hollywood. Đó là một cửa hàng đầy bụi bặm và chật chội bán sách thơ là chủ yếu. Trong đó toàn là những thứ tạp nham nhưng cũng có một vài thứ đáng quý. Khi còn là bác sĩ thực tập, tôi đã từng tới đó một lần vào giờ ăn trưa.
Stephanie nói:
- Ông ấy là nhà thơ. Tôi đang cố mở rộng chút hứng thú của mình vào lĩnh vực này.
Tôi đặt cuốn sách xuống. Stephanie ngồi xuống chiếc ghế đẩu cạnh bàn làm việc của mình và xoay một vòng lại đối mặt với tôi, hai chân bắt chéo. Đôi tất màu nâu và giày da lộn rất hợp với bộ cánh của cô.
- Cô thật đẹp - Tôi khen.
Cô mỉm cười, bất chợt nhưng đầy đặn, như thể đã đoán trước rằng tôi sẽ khen mà vẫn cảm thấy thích thú với lời khen ấy.


- Anh thì có kém gì chứ, anh Alex. Cảm ơn anh vì đã đến ngay.
- Là vì cô đã khuấy đảo niềm hứng thú của tôi.
- Thật vậy sao?
- Đúng thế. Toàn bộ những điều cô nói đều gợi cho tôi những suy tưởng về một âm mưu cao siêu nào đó.
Stephanie quay nửa vòng về phía bàn, lấy một cái bệnh án ra khỏi chồng, đặt nó lên đùi nhưng không mở ra.
- Đúng vậy - Cô nói - Đó là một ca gai góc lắm, tôi nói thật đấy.
Đột nhiên, cô đứng bật dậy, ra đóng cửa và quay về ngồi xuống chỗ cũ.
- Anh cảm thấy thế nào khi trở lại đây? - Stephanie hỏi.
- Chút nữa là tôi đã bị tóm cổ trên đường vào đây đấy.
Tôi kể lại cho cô nghe về cuộc chạm trán với nhân viên an ninh nọ.
- Đó là những kẻ phát xít ấy mà - Cô nói một cách vui vẻ. Câu nói của cô khiến tôi nhớ ra rằng cái Uỷ ban khiếu nại do chính cô đứng đầu. Đội blu trắng, quần jeans, dép xăng đan đã bị đội áo khoác trắng tỏ vẻ khinh miệt. Họ gọi cô là Stephanie, chứ không kèm danh hiệu Bác sĩ. Danh hiệu vẫn luôn là công cụ phân biệt của giới có quyền...
Tôi nói:
- Đúng thế, đó là thái độ nửa quân phiệt chứ chẳng sai.
Cô nhìn vào cuốn bệnh án trên đùi mình và nói:
- Cái mà chúng ta đang có là một câu chuyện ly kỳ - một chuyện hy hữu trong lịch sử đấy. Chỉ có điều đây không phải là tác phẩm trinh thám của nhà văn Agathan Christie, anh Alex ạ. Đây thực sự là một mớ bòng bong ngoài đời đấy. Tôi không biết anh có giúp gì được không, nhưng tôi thì không còn biết phải làm gì nữa rồi.
Những giọng nói từ bên ngoài hành lang vọng qua khe cửa lọt vào trong, tiếng thét, tiếng chửi rủa và mắng nhiếc hoà lẫn với tiếng bước chân chạy trốn. Rồi tiếng khóc trong kinh hoàng của một đứa bé xuyên thủng bờ tường lọt vào phòng.
- Đây đúng là một vườn thú - Stephanie nói - Chúng ta hãy ra khỏi nơi này rồi bàn chuyện.

Chú thích
(1) Chương trình chăm sóc y tế cho phụ nữ nghèo ở nước Mỹ.



+++++++++++++++++++++++++++++++



Chương 2

Cánh cửa phía sau bệnh viện đưa chúng tôi tới một cầu thang. Tôi và Stephanie bước xuống tầng trệt. Cô di chuyển khá nhanh, gần như là chạy xuống các bậc cầu thang.
Quán ăn tự phục vụ gần như đã vắng tanh - một bác sĩ thực tập đang ngồi đọc cuốn tạp chí thể thao bên chiếc bàn mặt da cam, hai bàn khác cũng đã bị một đôi chiếm mất. Hai người này có vẻ như đã ngủ nguyên trong bộ quần áo của họ. Họ là những bậc cha mẹ phải qua đêm ở đây. Đây là điều chúng tôi đã đấu tranh để có được.
Trên mặt những chiếc bàn khác bày đầy những bát đĩa bẩn. Một cô hộ lý đầu mang mạng tóc đi chậm chạp vòng quanh, đổ đầy những cái máy pha muối.
Trên tường phía Đông có cánh cửa dẫn tới phòng ăn của các bác sĩ; những tấm pa nô bằng gỗ tếch được đánh bóng cẩn thận, chiếc biển tên bằng đồng được khắc đẹp đẽ. Nó mang tên một nhà nhân chủng học có hứng thú với biển cả. Stephanie vượt qua và dẫn tôi tới một phòng nhỏ ở đầu kia của sảnh chính.
- Anh chắc là không muốn uống cà phê đấy chứ? - Cô hỏi.
Nhớ lại đám bùn cà phê ở bệnh viện, tôi đáp:
- Tôi đã nhập đủ hạn ngạch cà-phê-in vào bụng rồi.
- Tôi hiểu ý anh.
Bàn tay cô luồn nhanh vào mái tóc và chúng tôi cùng ngồi xuống ghế.
- Thế này nhé - Stephanie nói - Chúng ta hiện đang có một bé gái hai mươi mốt tháng tuổi sinh đủ ngày dủ tháng, tình trạng sinh bình thường, điểm APGAR (1) đạt tới 9/10. Nhân tố lịch sử có ý nghĩa duy nhất là trước khi đứa bé này được sinh ra thì người anh trai một tuổi của nó đã chết bởi hội chứng đột tử trẻ sơ sinh.
- Có còn đứa trẻ nào khác không? - Tôi vừa hỏi vừa rút từ túi ra cuốn sổ nhỏ và chiếc bút chì.
- Không, chỉ có Cassie thôi. Con bé ấy hoàn toàn bình thường cho tới khi nó được ba tháng tuổi. Theo lời của mẹ đứa bé cứ đến đêm khi chị ta vào kiểm tra xem con thêế nào thì lại phát hiện ra nó ngừng thở.
- Chị ta vào kiểm tra chắc là sợ con bị hội chứng đột tử trẻ con phải không?


- Chính xác. Khi không thể đánh thức được đứa bé, chị ta liền tiến hành hô hấp nhân tạo thì mới đánh thức được nó rồi đưa vào phòng cấp cứu. Lúc tôi tới nơi thì con bé có vẻ bình thường. Qua kiểm tra không thấy có biểu hiện gì đáng nghi vấn. Tôi đã cho con bé lưu trú tại bệnh viện để theo dõi, đã tiến hành tất cả các xét nghiệm thông thường nhưng chẳng phát hiện được gì cả. Sau khi chọ họ ra viện, tôi trấn an gia đình bằng một bộ máy theo dõi giấc ngủ và chuông báo động. Vài tháng sau đó, chuông báo động đã nhiều lần đổ nhưng toàn là báo động sai vì đứa bé vẫn thở bình thường. Biểu đồ theo dõi cho thấy có một vài đợt ngưng thở ngắn nhưng cũng có rất nhiều kết quả chỉ sự chuyển động - chẳng hạn như đứa bé ấy đã nô đùa. Tôi nghĩ có thể con bé ấy bị mất ngủ - còn những cái chuông báo động không hoàn toàn hết ngu ngốc - và đã toạ ra câu chuyện đầu tiên về điều kỳ quái. Nhưng tôi vẫn cứ yêu cầu một chuyên gia tim phổi khám kỹ cho con bé bởi vì người anh trai xấu số của nó đã bị hội chứng đột tử trẻ em rồi. Kết quả là không có bệnh. Vì thế, chúng tôi quyết định để mắt tới con bé trong những khoảng thời gian có nguy cơ đột tử cao.

- Một năm trời làm việc đó ư?
Stephanie gật đầu.
- Tôi đã giữ được an toàn cho cuộc sống của con bé - tới tận mười lăm tháng. Ban đầu tôi khám theo phương pháp bệnh nhân ngoại trú hàng tuần, sau đó giảm dần đến chín tháng sau thì tôi đã sẵn sàng để họ ra viện chờ tới lượt khám cách đó đúng một năm. Hai ngày sau lần khám ở tháng thứ chín, họ lại phải đưa con bé vào phòng cấp cứu, giữa đêm hôm khuya khoắt, do có vấn đề về hô hấp - con bé đã tỉnh giấc và thở gấp, thỉnh thoảng lại lên cơn hen tưởng ngưng thở. Vài lần phải hô hấp nhân tạo nữa khiến cho bôốmẹ con bé quyết định đưa nó trở lại bệnh viện.
- Chẳng phải hô hpá nhân tạo là biện pháp cực đoan đối với bệnh bạch cầu hay sao? Con bé đã ngất đi phải không?
- Không, con bé không bao giờ ngất đi cả, chỉ là khó thở thôi. Có thể mẹ nó đã phản ứng quá đáng, nhưng với việc từng bị mất đi đứa con đầu lòng rồi thì ai có thể đổ lỗi cho chị ta chứ? Khi tôi tới phòng cấp cứu thì đã thấy con bé hoàn toàn bình thường, không sốt, không có biểu hiện bệnhh lý. Cũng chẳng hề có sự ngạc nhiên nào. Không khí thoáng mát của buổi tối có thể làm bệnh khó thở biến mất. Tôi đã tiến hành chụp X-quang vùng ngực và kiểm tra máu. Tất cả đều cho kết quả bình thường. Tôi kê đơn thuốc thông đường hô hấp, dung dịch để rửa mũi và yêu cầu nghỉ ngơi. Bây giờ nó đã sẵn sàng để xuất viện nhưng bà mẹ thì cứ nài nỉ tôi cho con chị ta ở lại. Chị ta nghĩ rằng có điều gì đó rất nghiêm trọng đang xảy ra với đứa trẻ. Bản thân tôi lại thấy hoàn toàn không có gì cả, nhưng gần đây chúng tôi đã phát hiện ra một vài dấu hiệu đáng lo ngại về đường hô hấp, vì thế tôi đã cho con bé được nhập viện, ra lệnh ngày nào cũng kiểm tra máu cho nó. Lượng tế bào máu của nó bình thường và sau hai ngày bị tiêm chọc, con bé đâm ra phát hoảng khi nhìn thấy áo khoác trắng của bác sĩ. Tôi đã cho nó xuất viện, lại trở về phương án kiểm tra bệnh nhân ngoại trú hàng tuần. Trong thời gian này, con bé không phải tiếp xúc với tôi. Nhưng ngay khi tôi bước vào phòng hám, con bé đã gào tướng lên.


- Là bác sĩ cũng có cái thú vui ấy đấy - Tôi nói.
Stephanie nở nụ cười buồn và đưa mắt nhìn về những người phục vụ.
- Họ đang đóng cửa đấy. Anh có muốn ăn chút gì không?
- Không, cảm ơn cô.
- Nếu anh không phản đối thì tôi cũng chưa ăn sáng đâu.
- Tất nhiên là tôi không phản đối. Cô cứ tự nhiên đi.
Cô bước nhanh tới chiếc mặt bàn kim loại và trở lại với nửa đĩa bưởi và một cốc cà phê. Cô uống từng ngụm cà phê nhỏ và nhăn trán.
- Có lẽ tôi nên uống một chút cà phê sữa - Tôi đáp.
Stephanie dùng chiếc khăn ăn lau miệng.
- Chẳng gì có thể cưỡng lại được món này đâu.
- Vì chí ít nó cũng không tốn của tôi xu nào.
- Ai bảo thế?
- Gì cơ. Thế bây giờ không còn cà phê miễn phí cho các bác sĩ nữa à?
- Những ngày đó đã qua rồi, anh Alex ạ.
- Lại một truyền thống nữa bị mai một đi - Tôi nói - Phải chăng là do khó khăn về tài chính?
- Còn gì nữa chứ? Bây giờ uống một cốc cà phê và trà phải trả 49 xu. Vậy anh tính xem phải mất bao nhiêu cốc cà phê và trà nữa thì mới cân bằng được ngân sách đây?
Cô ăn bưởi một cách chậm rãi. Tôi nghịch vẩn vơ cây bút và nói:
- Tôi nhớ lại cái ngày chúng tôi vất vả đấu tranh để bác sĩ thực tập và bệnh nhân nội trú được hưởng những đồ miễn phí.
Cô lắc đầu.
- Tôi lấy làm ngạc nhiên về những gì được xem trọng vào lúc đó.
- Thế vấn đề tài chính hiện nay của bệnh viện đang nghiêm trọng hơn bình thường phải không?
- Tôi e là anh nói đúng - Cô chau mày, đặt cái thìa xuống bàn và đẩy đĩa bưởi ra xa - Thôi kệ, chúng ta trở lại ca bệnh thôi. Tôi nói đến đâu rồi nhỉ?
- Tới đoạn con bé ấy hét toáng lên khi nhìn thấy cô.
- Đúng rồi. Sau đó mọi thứ lại có vẻ ổn, và tôi lại giảm dần và kết thúc việc điều trị. Tôi hẹn gặp họ đúng hai tháng sau đó. Nhưng đến ngày thứ ba, họ lại tới phòng cấp cứu vào lúc 2 giờ sáng. Lại chuyện khó thở. Chỉ có lần này, người mẹ trẻ mới nói rằng con bé đã ngất xỉu - thực sự con bé đó đã trở nên xanh xám cả người. Lại hô hấp nhân tạo.
- Ba ngày sau khi cô kết thúc điều trị à? - Tôi vừa nói vừa chép điều này vào cuốn sổ - Lần trước là hai ngày.
- Đã thấy thú vị chưa? Tôi cho tiến hành các xét nghiệm khẩn cấp ngay. Huyết áp của con bé hơi tăng một chút và con bé vẫn đang thở khá nhanh. Nhưng như thế thì càng được nhiều ôxi vào phổi chứ, chẳng hề có biểu hiện khò khè nào. Tuy thế, tôi cũng nghi hoặc là con bé bị mắc một cơn hen suyễn ác tính hoặc mắc phải chứng rối loạn tâm lý nào đó.
- Có thể nào nó đã phát hoảng khi nghĩ tới việc bị đưa trở lại bệnh viện chăng?
- Có thể là thế, hoặc có thể chính tâm lý bấn loạn của người mẹ đã khiến con bé như thế.
- Thế bà mẹ có rất nhiều biểu hiện bấn loạn tâm lý hay sao?


- Không hẳn vậy, nhưng anh biết chuyện thường xảy ra giữa mẹ và con rồi đấy. Mặt khác, tôi cũng còn chưa sẵn sàng loại trừ chuyện gì đó có liên quan tới thể chất. Một đứa bé bị ngất xỉu là điều cần phải xem xét cẩn thận.
- Chắc chắn là vậy rồi - Tôi đáp - nhưng cũng có khả năng đó chỉ là cơn cáu gắt quá đà của đứa bé thôi. Một số đứa trẻ ngay từ bé đã biết cách nín thở và ngất xỉu rồi.
- Tôi biết, nhưng chuyện này lại xảy ra vào nửa đêm cơ, anh Alex ạ, chứ không phải xảy ra sau một trận ẩu đả. Vì thế, tôi đã cho con bé nhập viện, yêu cầu kiểm tra dị ứng. Các chức năng phổi hoạt động hoàn toàn bình thường - không có biểu hiện bị hen suyễn. Tôi cũng nghĩ tới những tình huống hiếm hơn: vấn đề về màng phổi, chuyện gì đó tự nhiên phát ra ở não, hoặc là rối loạn enzyme, vân vân. Họ lại có một tuần vui vẻ, được chuyên viên tới tận nhà kiểm tra, rồi tiêm chọc, kiểm tra. Con bé ấy thường phát hãi khi thấy cửa phòng nó bị mở. Không ai chẩn đoán được đó là loại bệnh gì, toàn bộ thời gian nó nằm ở viện thì không thấy có biểu hiện khó thở nào cả. Điều này càng củng cố thêm giả thiết về tâm lý của tôi. Tôi cho họ xuất viện và lần tiếp theo gặp họ tại văn phòng tôi không làm gì cả, chỉ cố chơi đùa với con bé. Nhưng con bé thì không chơi với tôi. Vì thế, tôi đặt ra vấn đề tâm lý với mẹ nó nhưng chị ta không chịu.
- Chị ta đã có phản ứng ra sao? - Tôi hỏi.
- Không hề cáu giận - đó không phải là kiểu phản ứng của một phụ nữ như chị ta. Chị ta chỉ nói rằng không hiểu ý của tôi, rằng con bé còn quá nhỏ nên không thể có sức ép tâm lý nào. Tôi nói chứng sợ hãi có thể xảy ra ở bất cứ lứa tuổi nào, nhưng vẫn không thuyết phục được chị ta. Vì vậy tôi bó tay, trả mẹ con họ về để chị ta có thời gian suy nghĩ với hy vọng rằng khi con bé được một năm tuổi nữa, nguy cơ đột tử sơ sinh giảm, nỗi ám ảnh của bà mẹ cũng giảm đi và con bé sẽ ổn. Chỉ bốn ngày sau đó, họ lại lao đến phòng cấp cứu, lại khó thở, thở gấp gáp, bà mẹ thì nước mắt ngắn nước mắt dài, van xin cho con bé được nhập viện> Tôi cho con bé nhập viện nhưng không tiến hành kiểm tra gì cả. Không hề tiêm chọc hay **ng chạm gì tới da thịt con bé dù là nhỏ nhất, chỉ quan sát. Và con bé có vẻ hoàn toàn bình thường - ngay cả khụt khịt mũi cũng không có. Tới lúc đó, tôi đi theo bà mẹ và mạnh mẽ thuyết phục chị ta dưới góc độ tâm lý. Vẫn không ăn thua gì.
- Thế chị ta có bao giờ đả động tới thằng con trai đầu đã chết không?
Stephanie lắc đầu.
- Không, tôi nghĩ là nên nói điều này ra nhưng vào thời điểm đó thì không thích hợp, anh Alex ạ. Dại gì mà gây thêm áp lực tâm lý cho người mẹ đó. Tôi nghĩ tôi đã rất thông cảm với chị ta - tôi chính là bác sĩ trực hôm mà vợ chồng chị ta đưa đứa con trai đầu tới trong tình trạng đã chết. Tôi lo việc khám nghiệm tử thi... đưa thằng bé tới nhà xác, anh Alex ạ.


Cô nhắm mắt rồi lại mở ra và nhìn xa xăm.
- Trời ơi, tội quá! - Tôi thốt lên.
- Tội lắm! Và đó cũng là chuyện cơ duyên. Họ chính là bệnh nhân riêng của bà Rita nhưng lúc đó bà ấy không có mặt nên tôi được triệu tới. Tôi không hề biết tí gì về họ nhưng lại phải tiến hành nói chuyện về cái chết của đứa con họ. Tôi đã cố đưa ra những lời tư vấn căn bản, giới thiệu họ tới một vài nhóm có cùng đau khổ nhưng họ đều không hứng thú. Một năm rưỡi sau họ quay trở lại và muốn tôi chăm sóc cho đứa con mới chào đời đã khiến tôi thực sự kinh ngạc.
- Tại sao chứ?
- Tôi đoán rằng trong mắt họ tôi là vị bác sĩ liên quan trực tiếp tới bi kịch của gia đình họ, một người đưa tới tin dữ chẳng hạn. Khi biết họ không nghĩ thế, tôi mới té ngửa ra rằng hoá ra tôi đã xử lý ca trước đó rất tốt.
- Tôi cũng cho là cô đã làm tốt việc đó.
Stephanie nhún vai.
Tôi nói:
- Thế Rita có phản ứng gì với việc cô đã làm không?
- Bà ấy còn biết phải lựa chọn thế nào nữa chứ? Bà ấy đã không có mặt khi tôi cần tới. Mà ngay vào thời điểm đó, Rita cũng đang gặp vấn đề. Ông chồng bà ấy - mà anh biết bà ấy kết hôn với ai rồi phải vậy không?
- Otto Kohler chứ gì.
- Một người chỉ huy dàn nhạc nổi tiếng - bà ấy thường nói về ông ta thế này: "Chồng tôi ấy à, ông ấy là chỉ huy dàn nhạc có tiếng đấy."
- Ông ta vừa mới mất, phải vậy không?
- Mấy tháng trước. Ông ấy đã ốm liệt giường trong thời gian dài, bị một loạt các cú đột quỵ. Kể từ đó, Rita thường vắng mặc trên mức thường xuyên khiến chúng tôi gặp rất nhiều phiền hà. Bà ấy thường dự các cuộc hội họp và toàn trình những giấy tờ cũ kỹ. Thực ra bà Rita sắp nghỉ hưu rồi - Stephanie cười ngượng nghịu - Tôi đang xem xét xin vào vị trí của bà ấy đấy, anh Alex ạ. Anh có thấy tôi hợp với vị trí trưởng khoa không?
- Có chứ.
- Anh nói thật đấy chứ?
- Hoàn toàn thật lòng, Stephanie ạ. Tại sao tôi lại không nói thật được chứ?
- Tôi không biết nữa. Vị trí ấy vốn dĩ đòi hỏi sự độc đoán.
- Về một mức độ nào đó mà nói thì là vậy - Tôi đáp - Nhưng tôi nghĩ nó có thể biến đổi tuỳ vào kiểu người lãnh đạo.
- Mà tôi cũng không biết mình có trở thành một trưởng khoa tốt không - Stephanie nói - Tôi không thích bắt người khác phải làm điều này điều nọ... Dù sao, chúng ta cũng không bàn chuyện này nữa nhé. Tôi đang đi lạc đề mất rồi. Vậy là đã có thêm hai lần con bé ấy bị ngất xỉu trước khi tôi đề cập đến vấn đề tâm lý.
- Hai à - Tôi vừa nói vừa nhìn vào cuốn sổ ghi chép - Vậy là ta đã có tổng số năm lần bị.
- Chính xác.
- Hiên nay con bé ấy bao nhiêu tuổi rồi?

Chữ ký

thay đổi nội dung bởi: APOLONG, 01-04-2009 lúc 11:35 PM. Lý do: Gộp 2 bài gần nhau
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #2  
Cũ 01-04-2009, 11:31 PM
APOLONG's Avatar
APOLONG APOLONG is offline
Điều Hành Viên
 
Tham gia: 14/11/2008
Họ và tên: Apolong
Bài viết: 677
Xã: Tình khác
Gửi tin nhắn qua Yahoo chát tới APOLONG
Default Trả lời : [Truyện Kinh Dị] - Vũ Điệu Quỷ - [+15]

- Chưa đầy một năm tuổi và là người nằm viện kỳ cựu đấy. Thêm hai lần nhập viện nữa và lại âm tính đối với mọi xét nghiệm. Tới lúc đó, tôi đề nghị bà mẹ cho tiến hành khám tâm lý. Nghe tôi nói thế, chị ta liền phản ứng... Đây, để tôi cho anh xem những từ chị ta nói.
Stephanie mở cuốn bệnh án ra và nhẹ nhàng đọc: "Tôi biết điều đó là có lý, thưa bác sĩ Eves, nhưng tôi biết chắc rằng con bé đang bị ốm. Giá mà bác sĩ tận mắt chứng kiến cảnh nó nằm đó, toàn thân tím tái". Chấm hết.
- Chị ta nói thế thật à? Tức là dùng từ tím tái ấy?
- Đúng. Chị ta có biết qua một chút về y học, đã từng học để trở thành chuyên viên hô hấp.
- Thế mà cả hai đứa con của chị ta đều bị chứng ngừng thở. Thật hấp dẫn quá.
- Đúng vậy - Stephanie nở nụ cười khô khan - Lúc vào việc, tôi đâu có nhận ra sự hấp dẫn của vấn đề. Tôi như đang đứng giữa mê lộ, cố gắng đưa ra một chẩn đoán. Tôi luôn nghĩ không biết cơn bệnh tới sẽ xảy ra khi nào và liệu có làm được gì để giải quyết không. Thật đáng ngạc nhiên, chuyện tồi tệ đã không xảy ra trong một thời gian khá lâu.
Stephanie lại nhìn vào sổ bệnh án.
- Một tháng trôi qua, rồi hai, ba tháng mà vẫn không thấy họ tới. Tôi rất vui vì đứa bé không hề hấn gì nhưng giờ lại lo nhỡ đâu họ vừa tìm cho mình một bác sĩ mới. Vì thế tôi đã gọi điện tới gia đình, nói chuyện với người mẹ. Mọi thứ đều tốt đẹp. Rồi tôi nhận rất rằng, trong lúc hối hả lo lắng về bệnh tình của đứa bé thì chính nó lại bị bỏ lỡ mất đợt kiểm tra một năm. Tôi đặt kế hoạch kiểm tra lại cho nó, mọi thứ đều ổn ngoại trừ việc nó nói hơi chậm.
- Chậm thế nào?
- Không phải là căn bệnh chậm phát triển hay gì đó tương tự. Con bé hầu như không nói được gì - thật ra, tôi chưa nghe thấy nó nói được âm nào cả. Mẹ nó bảo ở nhà nó cũng không mấy khi nói. Tôi đã thử dùng phép thử Bailey (2) nhưng vô ích vì con bé không chịu hợp tác. Tôi ước chừng co bé bị chậm nói mất khoảng hai tháng, nhưng anh biết đấy, ở độ tuổi đó, điều này chưa có gì đảm bảo cả, và với những căng thẳng mà con bé ấy phải trải qua thì chuyện chậm nói hai tháng chẳng có gì là lớn chuyện. Nhưng thật là may. Đưa ra vấn đề phát triển ngôn ngữ khiến cho bà mẹ phải lo lắng. Vì thế, tôi đã giới thiệu họ tới khoa Tai - Mũi - Họng và khoa Nghe - Nói. Qua kiểm tra, các khoa kết luận cấu trúc tai và thanh quản của con bé hoàn toàn bình thường và nhất trí với đánh giá của tôi rằng con bé hơi chậm nói do phản ứng của cơ thể với những căng thẳng trong điều trị. Tôi gợi ý người mẹ tiến hành kích thích cho con bé nói và hai tháng liền sau đó không thấy gia đình nói gì.
- Thế là tới lúc đó đứa bé đã được mười bốn tháng tuổi - Tôi vừa nói vừa ghi.


- Nhưng được hai tháng bốn ngày thì họ lại vội vã đưa con bé vào phòng cấp cứu. Nhưng lần này thì không phải là do vấn đề hô hấp. Con bé lên cơn sốt cao - 40,5 độ C. Người đỏ tấy và khô, hơi thở nhanh. Nói thực, anh Alex ạ, tôi rất mừng vì thấy con bé đó bị sốt - ít nhất tôi cũng đã có được thứ gì đó bên trong cơ thể để mà xét đoán. Nhưng rồi lượng bạch cầu lại trở về mức bình thường, không thấy có vi khuẩn hay vi rút gì đó thâm nhập cả. Thế la tôi đành phải thử độc tố. Hoàn toàn không có chút độc tố nào trong máu con bé. Tất nhiên, các cuộc xét nghiệm trong phòng thí nghiệm không phải luôn luôn hoàn hảo - tỷ lệ sai của xét nghiệm thậm chí từ 15 đến 20% ấy chứ. Còn chuyện sốt cao là có thật - chính tay tôi cặp nhiệt độ cho con bé. Chúng tôi tắm và cho nó uống Tylenoled để hạ nhiệt xuống còn 39 độ C. Sau đó cho nó nhập viện với chẩn đoán là sốt lạ, truyền dịch và khiến nó đau đớn qua cuộc thử dịch tuỷ sống để chắc chắn là nó không bị viêm màng não. Mặc dù tai nó vẫn thính và cổ vẫn mềm nhưng chúng tôi cho rằng nếu con bé có bị đau đầu đến khốn cùng đi nữa thì thì nó cũng sẽ không thể nói cho chúng tôi biết được. Thêm hai ngày thử máu, con bé trở nên điên loạn, phải giữ chặt chân tay nó. Vậy mà nó vẫn vài lần đẩy kim tiêm ra đấy.
Stephanie thở hắt ra và đẩy đĩa bưởi ra xa hơn. Trên trán cô lấm tấm mồ hôi. Lấy chiếc khăn lau trán, cô nói:
- Đây là lần đầu tiên tôi kể chuyện này từ đầu đấy.
- Cô đã bao giờ tham gia hội chẩn ca bệnh nào chưa?
- Chưa, mà bây giờ chúng tôi không mấy khi tiến hành hội chẩn nữa. Bà Rita căn bản không còn đảm đương được nữa rồi.
- Thế người mẹ đã phản ứng thế nào đối với quá trình xét nghiệm ấy? - Tôi hỏi.
- Chị ta có khóc, nhưng thường là bình tĩnh. Chị ta còn dỗ đứa bé, vuốt ve nó khi việc xét nghiệm kết thúc. Tôi không để cho chị ta tham gia vào việc giữ đứa bé khi nó phản ứng giãy - để giữ nguyên vẹn tình mẹ con của họ. Anh thấy không, bài giảng của anh tại đây đã được áp dụng. Tất nhiên, chúng tôi đều cảm thấy đã hành động có vẻ hơi phát xít.
Cô lấy chiếc khăn ăn lau mồ hôi trên đôi lông mày.
- Dù sao, những cuộc xét nghiệm máu đều đưa đến kết quả bình thường nhưng tôi chưa vội cho xuất ivện đợi tới khi con bé hết sốt liền trong bốn ngày.
Cô thở dài, đưa tay luồn vào mái tóc và lật qua cuốn sổ bệnh án.
- Lần sốt cao tiếp theo đây: con bé đã được mười lăm tháng tuổi, người mẹ nói rằng nó bị sốt tới 41 độ.
- Thật nguy hiểm.
- Anh nói đúng. Bác sĩ trực phòng cấp cứu ghi lại được nhiệt độ con bé là 39,5độ, đã tắm và cho nó uống một liều hạ sốt xuống còn 38,5độ. Bà mẹ còn thông báo một vài triệu chứng mới như nôn mửa và ỉa chảy. Ngoài ra còn có hiện tượng đi ngoài ra máu.
- Bị chảy máu trong phải không?


- Có vẻ là như thế. Tin đó làm cho mọi người đều lo lắng. Cái tã con bé mặc đúng là bằng chứng rằng nó ị ỉa chảy nhưng không hề có dấu hiệu của máu. Người mẹ nói rằng chị ta đã ném cái tã có máu đi rồi và sẽ cố tìm lại. Khi kiểm tra, phần trực tràng của con bé có hơi đỏ, hơi tấy phần rìa ngoài của cơ vòng. Nhưng ruột không bị sưng gì cả - bụng của nó mềm mại và đẹp, có thể khi người khác sờ vào thì nó trở nên mềm hơn. Nhưng rất khó khám chính xác vì con bé gào thét không ngừng mỗi khi bị khám.
- Ruột già có sẹo không? - Tôi hỏi.
- Không hề có gì như thế cả. Chỉ hơi bị tấy thôi, do ỉa chảy. Tắc ruột hay viêm ruột thừa bị loại bỏ. Tôi đã triệu bác sĩ phẫu thuật tới, anh Joe Leibowitz ấy. Anh biết sự cẩn thận của anh ấy rồi đấy. Anh Joe đã khám cho con bé và khẳng định không có lý do gì để mổ cả nhưng cần cho con bé nhập viện và theo dõi một thời gian. Chúng tôi tiêm ven cho con bé và lập hẳn môt ban hội chẩn, và lần này thì lượng bạch cầu có tăng lên một chút, nhưng vẫn chỉ nằm trong giới hạn cho phép, không có gì phù hợp khiến con bé phát sốt tới 39,5 độ C. Ngày hôm sau, con bé đã giảm xuống còn 38,5 độ C. Ngày hôm sau nữa, nó còn 37 độ C và bụng dường như không phải viêm ruột thừa. Tôi triệu người của khoa Dạ dày - Ruột tới và nhận được kết quả khám của Tony Franks. Ông ta khám xem con bé có những biểu hiện ban đầu của hội chứng viêm ruột, gọi là viêm ruột kết hay vấn đề gì đó ở gan không. Kết quả âm tính. Lại một ban hội chẩn về độc tố nữa được thành lập, xem xét lịch sử ăn uống của nó một cách cẩn thận. Tôi triệu tập tiếp người của khoa Dị ứng và Miễn dịch tới để xem con bé có phải quá nhạy cảm dị thường đối với thứ gì đó không.
- Thế con bé có dùng sữa ngoài không?
- Không hề, nó được nuôi bằng sữa mẹ, mặc dù lúc đó, nó có thể ăn được những đồ cứng rồi. Sau một tuần, con bé có vẻ hoàn toàn bình thường. Ơn Chúa, chúng tôi đã không tiến hành mổ nó.
- Mười lăm tháng tuổi, vậy là đã qua giai đoạn có nguy cơ đột tử cao. Vậy là hệ thống hô hấp bình thường trong khi ruột lại có vấn đề?
Stephanie nhìn tôi vẻ tìm kiếm gì đó.
- Anh muốn chẩn đoán liều phải không?
- Vậy có đúng không nào?
- Đúng là có thêm hai vụ khủng hoảng về dạ dày và ruột khác. Đó là lúc con bé mười sáu tháng tuổi - bốn ngày sau cuộc hẹn với bác sĩ Tony ở khoa Ruột - Dạ dày và một tháng rưỡi sau lần hẹn cuối cùng với ông ta.
- Vẫn là những triệu chứng ấy à?
- Đúng vậy. Nhưng cả hai lần này, người mẹ đều đưa đến cái tã có máu và chúng tôi làm xét nghiệm xem có mầm bệnh gì không, tức là xem có bị thương hàn, tả, bệnh nhiệt đới - thứ bệnh chưa từng xảy ra trên châu lục này. Chúng tôi cũng tìm xem có dấu hiệu độc tố môi trường nào không, đại loại như chì, kim loại nặng,... nhưng chẳng phát hiện ra điều gì bất thường ngoài việc con bé ấy hoàn toàn khoẻ mạnh.


- Thế công việc của cha mẹ con bé có thể nào đã khiến nó tiếp xúc với chất độc hại kỳ lạ nào đó không?
- Rất khó. Chị ta chỉ ở nhà trông con còn anh chồng là giáo sư đại học.
- Chuyên ngành sinh học phải không?
- Xã hội học đấy. Nhưng khoan hãy bàn về chuyện cơ cấu gia đình vội vì chúng ta còn điều này nữa. Một kiểu khủng hoảng khác. Khoảng sáu tuần trước, những trục trặc về ruột biến mất và thay vào đó là bất thường ở hệ thống nội tạng khác. Anh thử đoán xem là gì?
Tôi nghĩ ngợi giây lát rồi nói:
- Hệ thần kinh.
- Chuẩn xác - Stephanie cúi người và nắm lấy cánh tay tôi - Thế là tôi thấy việc gọi anh tới đây đúng đắn rồi.
- Bị lên cơn co giật ư?
- Vào đúng nửa đêm mới chết chứ. Bố mẹ con bé gọi đó là chứng động kinh ác tính, sùi cả bọt mép ra ngoài. Điện não đồ cho thấy không hề có biến động sóng não bất thường còn con bé vẫn có đầy đủ các phản xạ. Tuy nhiên, chúng tôi đã cho chụp cắt lớp, lấy dịch tuỷ và sử dụng toàn bộ các xét nghiệm X-quang não để xem con bé có khả năng bị khối u não nào không. Điều này làm tôi phát sợ, anh Alex ạ, bởi vì lúc ấy tôi suy nghĩ rằng một khối u có thể đã gây ra tất cả mọi thứ rắc rối từ trước đến nay. Một khối u mọc ở các vùng khác nhau của não sẽ gây ra những biểu hiện khác nhau khi nó phát triển.
Stephanie lắc đầu.
- Liệu đó có phải là một tình huống vui được không? Tôi đang nói tới những biểu hiện căng thẳng thần kinh ấy, biết đâu có khối u ác tính hay cái gì đó đang lớn dần trong đầu con bé thì sao? Ơn Chúa, tất cả các kết quả chụp chiếu đều tốt cả.
- Con bé có biểu hiện sau co giật khi cô tới gặp nó ở phòng cấp cứu không?
- Đúng là con bé có vẻ uể oải và bơ phờ. Nhưng điều đó cũng phù hợp với việc một đứa trẻ bị kéo tới bệnh viện vào lúc nửa đêm và bị đưa qua một cái máy vắt. Bản thân tôi cũng vẫn sợ rằng có điều gì đó mà mình chưa phát hiện ra. Tôi lại yêu cầu khoa Thần kinh theo dõi. Họ theo dõi liền một tháng mà không phát hiện ra bệnh gì. Hai tuần sau, tức là hai ngày trước thôi, con bé lại bị co giật, và tôi cần đến sự giúp đỡ của anh, anh Alex ạ. Ngay lúc này họ đang ở tầng 5 - khu Tây. Và đó là toàn bố ự việc được kể theo dòng thời gian. Anh đã sẵn sàng cho tôi một lời vàng ngọc chưa?


Tôi liếc nhìn qua cuốn sổ ghi chép.
Rõ ràng đã liên tục xảy ra những trục trặc khó lý giải. Rất nhiều lần được đưa tới bệnh viện.
Rắc rối chuyển từ hệ thống nội tạng này sang hệ thống khác.
Sự khác biệt giữa xét nghiệm trong phòng thí nghiệm và biểu hiện.
Đứa bé thường sợ hãi khi được điều trị.
Người mẹ từng được đào tạo về sơ cứu.
Người mẹ xinh xắn.
Người mẹ xinh xắn cũng có thể là một con ác quỷ.
Hiếm có những chẩn đoán nhưng thực tế đều phù hợp. Cho tới hai mươi năm trước, chưa ai từng được nghe tới căn bệnh này.
- Hội chứng cường điệu gần đây - Tôi nói đồng thời đặt cuốn sổ ghi chép xuống - Nghe có vẻ đây là một vụ kinh điển đấy.
Đôi mắt Stephanie nheo lại.
- Đúng là như thế đấy. Khi anh là người nghe thì anh xâu chuỗi được tất cả lại như thế. Nhưng khi anh rơi vào giữa chuyện này... thậm chí tới lúc này tôi cũng không dám khẳng định điều gì.
- Cô vẫn nghĩ là có cái gì đó liên quan tới nội tạng con bé?
- Tôi buộc phải nghĩ vậy cho tới khi nào có thể chứng minh rằng mình sai. Còn một trường hợp nữa - năm ngoái, tại County, có liền 25 ca phải nhập viện vì những bệnh truyền nhiễm kỳ bí liên tục xảy ra trong vòng sáu tháng. Cũng là một đứa bé gái, người mẹ rất lo lắng nhưng luôn giữ được bình tĩnh khiến các bác sĩ yên tâm làm việc của mình. Tình trạng đứa bé đó xấu và các bác sĩ sắp phải trình trường hợp này lên các cấp cao hơn khi phát hiện ra căn bệnh đó là bệnh suy giảm miễn dịch hiếm thấp - có 3 ca đx được ghi chép lại, bên bảo hiểm y tế quốc gia đề nghị làm các xét nghiệm đặc biệt. Khi nghe được chuyện này, tôi cũng yêu cầu làm các xét nghiệm cho con bé Cassie để xem có nhiễm căn bệnh suy giảm miễn dịch quái quỷ đó không. Kết quả âm tính. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là tôi đã nắm được hết tất cả các loại bệnh. Những bệnh mới liên tục xuất hiện - còn tôi thì không đủ thì giờ để theo dõi các tạp chí chuyên ngành.
Stephanie lấy thìa khuấy cốc cà phê.
- Hoặc có thể tôi đang mâu thuẫn với chính mình - cố trấn an bản thân rằng đây không phải là hội chứng Munchausen (3). Đó là lý do tại sao tôi mời anh tới đay - tôi cần một hướng đi, anh Alex ạ. Xin anh hãy cho tôi một lời khuyên nên làm như thế nào với ca bệnh này.
Tôi nghĩ ngợi trong giây lát.


Có thể đó là hội chứng Munchausen thật, một kiểu giả bệnh trọng do rối loạn tâm lý gây ra.
Đó là một kiểu nói dối bệnh hoạn rất kỳ cục, được đặt tên theo nhân vật nói dối tài ba Baron Munchausen trong cuốn sách của nhà văn Đức Rudolf Raspe.
Hội chứng Munchausen là chứng nghi bệnh đi quá đà. Các bệnh nhân tạo ra bệnh bằng cách tự làm bản thân thương tích và tự đầu độc, hoặc chỉ đơn giản là nói dối. Họ muốn chơi trò với các bác sĩ và y tá - với cả hệ thống chăm sóc y tế.
Những bệnh nhân trưởng thành mắc hội chứng Munchausen thường được đưa vào các bệnh viện liên tục, được cho dùng thuốc một cách không cần thiết, thậm chí bị phẫu thuật trên bàn mổ.
Thật đáng thương, một kiểu hành xác - một câu đố về tâm lý hiện vẫn còn thách thức sự hiểu biết của giới chuyên môn.
Nhưng điều chúng tôi đang xem xét hiện nay hoàn toàn nằm ngoài sự thương hại. Nó là một biến thể đáng sợ khác mà các bác sĩ gọi là hội chứng Munchausen thế thân.
Những bậc cha mẹ - toàn là các bà mẹ thì đúng hơn - giả bệnh ở chính những đứa con họ, sử dụng thân thể của những đứa con - nhất định là con gái - để làm vật thí nghiệm sự đau đớn và bệnh tật bịa đặt đến ghê tởm của họ.
Tôi nói:
- Ngay từ ban đầu đã có nhiều trùng hợp phải không, Stephanie? Ngưng thở và ngất xỉu có thể là do bị làm ngạt - những dấu hiệu chuyển động trên máy theo dõi có thể là biểu hiện con bé có kháng cự.
Stephanie nhăn mặt:
- Trời ạ, đúng như anh nói. Tôi đọc báo thấy nói tới một ca ở Anh người ta đã căn cứ vào những dấu hiệu chuyển động để kết luận đứa trẻ bị làm ngạt.
- Người mẹ lại là chuyên viên hô hấp thì hệ thống này sẽ là thứ đầu tiên chị ta chọn để gây rối. Vậy còn vấn đề về ruột thì sao? Phải chăng đó là một hình thức đầu độc?
- Rất có khả năng như thế, nhưng ban hội chẩn độc tố không thể tìm thấy chất gì khi xét nghiệm cả.
- Biết đâu chị ta đã dùng thứ thuốc gì đó có tác dụng ngắn.
- Mà cũng có thể là một chất kích thích dạng trơ tác động cơ học vào thành ruột nhưng rồi bị đào thải luôn, không nhiễm vào máu.
- Vậy còn chuyện co giật?
- Theo tôi, cũng tương tự. Tôi không biết gì hết, anh Alex ạ. Tôi thực sự không biết nghĩ thế nào nữa.
Stephanie lại nắm cánh tay tôi.
- Tôi không có bằng chứng nào cả và điều gì xảy ra nếu tôi sai? Tôi cần anh thật khách quan trong chuyện này. Hãy để mẹ của Cassie được hưởng sự nghi ngờ - có thể tôi đã đánh giá sai lầm về chị ta. Anh hãy cố tìm xem điều gì đang xảy ra trong đầu của chị ấy.
- Tôi không thể hứa trước điều kỳ diệu nào đâu, Stephanie ạ.


- Tôi hiểu. Nhưng dù anh là được gì thì cũng sẽ rất có ích. Ca bệnh này thực sự làm cho mọi chuyện rối tung lên rồi anh ạ.
- Cô đã nói với chị ta là tôi sẽ tới khám chưa?
Cô gật đầu.
- Chị ta có thích được bác sĩ tâm lý khám không?
- Tôi không dám nói là thích nhưng mà chị ta đã đồng ý. Tôi nghĩ đã thuyết phục được chị ta bằng cách lảng tránh không nói rằng nguyên nhân các vấn đề của Cassie là do con bé chịu nhiều căng thẳng. Thật ra, tôi nghĩ chuyện con bé bị co giật đúng là có vấn đề liên quan tới phủ tạng của nó rồi chứ không sai. Nhưng tôi cứ nhấn mạnh đến việc phải giúp đỡ con bé quen với những cơn đau đớn tại bệnh viện. Tôi nói với chị ta rằng chứng co giật có thể khiến Cassie phải vào bệnh viện nhiều hơn và chúng ta sẽ giúp nó làm quen với chuyện này. Tôi nói anh là chuyên gia về vấn đề đau đớn trong điều trị, có thể làm thôi miên để con bé dễ chịu hơn trong quá trình nằm viện. Nghe có lý không?
Tôi gật đầu.
- Trong lúc khám bệnh cho con bé, anh có thể phân tích chị ta xem sao, xem có phải chị ta bị tâm thần không - Stephanie nói.
- Nếu đây là hội chứng Munchausen thế thân thì cần gì phải xem chị ta có tâm thần hay không.
- Vậy thì sao chứ? Kẻ điên kiểu gì mà lại làm chuyện này với đứa con của chính mình?
- Không ai biết chính xác là gì cả - Tôi nói - Tôi đã xem qua bệnh tâm thần kiểu này, nhưng điều suy đoán hữu lý nhất được đưa ra thường cho rằng đó là một loại rối loạn tính cách tổng hợp. Vấn đề là ở chỗ những trường hợp được lưu thành hồ sơ rất hiếm, thực sự chưa có một sơ hở dữ liệu tốt về vấn đề này.
- Đúng là như thế, anh Alex ạ. Tôi đã tìm khắp các nguồn tài liệu của trường y và hầu như không biết thêm được gì.
- Tôi muốn mượn cô những bài báo đó được chứ?
- Tôi đọc ngay tại chỗ, không mượn về nhà - Stephanie nói - Nhưng tôi nghĩ là đã chép lại những đoạn cần tham khảo. Đúng là tôi có nhớ tới chuyện tính cách rối loạn - mà cái đó thì nghĩa lý gì chứ?
- Nghĩa là vì chúng ta không biết nên cứ làm bừa. Một phần của vấn đề nằm ở chỗ các chuyên gia tâm lý và tâm thần thường căn cứ vào thông tin họ có được từ bệnh nhân để đưa ra kết luận, và trước một kẻ bị hội chứng Munchausen đồng nghĩa với việc chúng ta tin một kẻ quen thói nói dối. Tuy nhiên, những câu chuyện mà họ kể lại dường như khá hợp lý. Nào là từ nhỏ đã mắc bệnh hay đau đớn về thể xác, gia đình cường điệu về vấn đề bệnh tật và sức khoẻ, sự lạm dụng trẻ em, đôi khi đó còn là sự loạn luận. Những điều này đều khiến lòng tự trọng bị giảm mạnh, gây ra những hậu quả về quan hệ, và nhu cầu bệnh hoạn muốn được mọi người chú ý. Bệnh tật trở thành vũ đài để thoả mãn nhu cầu bệnh hoạn - đó là lý do tại sao nhiều người trong bọn họ lại tham gia vào ngành Y tế. Nhưng cũng có rất nhiều người cùng lịch sử như vậy thường sẽ đưa đến những người mắc chứng bệnh Munchausen tự hành hạ bản thân mình và cả những người mắc chứng bệnh Munchausen thế thân chuyên hành hạ những đứa con của họ. Thực ra, có một vài nhận xét rằng các bậc cha mẹ mắc bệnh Munchausen thế thân ban đầu thường là những người tự hành xác rồi sau đó mới chuyển sang sử dụng thân xác của con cái họ. Nhưng tại sao và khi nào quá trình chuyển biến ấy xảy ra thì không ai biết.


- Kỳ quái quá - Cô vừa nói vừa lắc đầu - Nó giống như một vũ điệu. Tôi cảm thấy mình đang nhảy điệu van-xơ đó với chị ta và chị ta là người dẫn bước.
- Đó là điệu van-xơ của quỷ - Tôi đáp.
Stephanie rùng mình.
- Tôi biết anh không định bàn sâu về vấn đề khoa học tự nhiên nhưng nếu anh có thể đào sâu thêm trong chuyện này thì hãy nói cho tôi biết liệu anh có cho rằng chị ta đang làm chuyện xấu xa không nhé.
- Tất nhiên rồi. Nhưng tôi hơi tò mò muốn biết tại sao cô không triệu tập khoa Tâm lý của bệnh viện tới làm việc này.
- Tôi chưa bao giờ ưa khoa Tâm lý của bệnh viện cả - Cô nói - Họ quá thiên về hành vi liên quan tới tình dục. Hardesty lúc nào cũng muốn đưa tất cả mọi người lên giường. Dù sao, đó cũng là một quan điểm còn gây nhiều tranh cãi. Mà không còn khoa Tâm lý nữa.
- Ý cô là gì?
- Tất cả bọn họ đều bị đuổi việc rồi.
- Cả khoa à? Khi nào vậy?
- Mấy tháng trước. Anh không đọc báo chuyên ngành à?
- Không thường xuyên lắm.
- Rõ rồi. Khoa Tâm lý bị giải tán. Hợp đồng của Hardesty với quận đã bị huỷ và vì ông ta không viết giấy tờ chuyển đổi nên không có sự hỗ trợ về tài chính, Ban giám đốc bệnh viện đã quyết định không chi trả các khoản chi phí.
- Thế còn chức danh của Hardesty thì giải quyết thế nào?Những người khác nữa chứ - chẳng phải Greiler và Pantissa cũng có chức danh đó sao?
- Có lẽ thế. Nhưng chức danh đó hoá ra lại là từ trường y, chứ không phải do bệnh viện phong. Vì vậy họ vẫn còn chức danh của mình. Lương lại là một chuyện khác hoàn toàn. Cuối cùng nhiều người trong chúng tôi mới hiểu thế nào gọi là sự an toàn trong công việc mà trước nay họ vẫn lầm tưởng. Không ai ủng hộ Hardesty cả. Mọi người đều nghĩ rằng ông ta và các tay chân là những người thừa.
- Vậy là không còn khoa Tâm lý, không được uống cà phê miễn phí. Còn chuyện gì nữa không? - Tôi hỏi.
- Ô, còn nhiều chứ. Chuyện không còn khoa Tâm lý nữa có tác động nhiều tới anh không? - Ý tôi là chuyện đặc lợi với tư cách là cộng tác viên của khoa ấy?
- Không, chức danh của tôi nằm ở khoa Nhi. Thực ra là khoa Ung thư, mặc dù đã lâu lắm rồi tôi không tư vấn cho những bệnh nhân ung thư.


- Tốt - Stephanie nói - Vậy là anh không gặp rắc rối gì trong vấn đề thủ tục rồi. Còn câu hỏi gì nữa trước khi chúng ta đi lên phòng không?
- Chỉ là một vài quan sát thôi. Nếu đó là hội chứng Munchausen thế thân thì cần phải gấp gáp rồi đấy - bức tranh thường thấy là sự leo thang trong hành động của bệnh nhân. Đôi khi cái chết thường đến với những đứa trẻ, Stephanie ạ.
- Tôi biết - Cô nói vẻ rầu rĩ, hai ngón tay trỏ day mạnh thái dương - Tôi biết có thể phải đối mặt với người mẹ. Đó chính là lý do tại sao tôi phải thận trọng.
- Điều nữa là đứa con đầu lòng - một đứa bé trai. Tôi nghĩ cô đang nghi đây có thể là một vụ giết người.
- Ôi trời, đúng như anh nói đấy. Nghi vấn này đang giày vò tôi ghê gớm. Khi sự nghi ngờ của tôi về bà mẹ bắt đầu đặc quánh lại, tôi đã lôi bệnh án của thằng bé ra và xem đi xem lại rất kỹ lưỡng. Nhưng chẳng có gì đáng phải ngờ vực cả. Những ghi chép của Rita nói chung là tốt - trước khi chết, thằng bé đó hoàn toàn khoẻ mạnh và khám nghiệm tử thi không đi đến kết luận cuối cùng, có nhiều trường hợp như thế. Giờ đây, tôi đang có một đứa bé còn sống, còn thở hẳn hoi mà không thể làm gì để giúp nó được.
- Nghe co vẻ như cô đang làm tất cả những gì có thể.
- Tôi đang cố gắng, nhưng thật thất vọng.
Tôi trấn an:
- Còn người cha thì sao? Chúng ta chưa từng nói về anh ta.
- Tôi không thích anh ta cho lắm. Người mẹ mới là người chăm sóc chính của con bé và hầu hết thời gian tôi làm việc với chị ta. Kể từ khi tôi nghĩ tới khả năng bị hội chứng Munchausen thế thân thì chị ta dường như trở nên đặc biệt quan trọng cần phải tập trung chú ý, bởi vì đó chẳng phải bà mẹ luôn luôn là người bị mắc phải hội chứng đó hay sao?
- Đúng thế - Tôi nói - nhưng cũng vẫn có trường hợp kẻ đồng loã thụ động lại la người cha. Cô có thấy biểu hiện nào chứng tỏ anh ta nghi ngờ điều gì đó không?
- Nếu có thì anh ta cũng không nói cho tôi hay. Anh ta dường như không phải là người đặc biệt thụ động - khá dễ chịu. Mà chị ta cũng thế. Cả hai vợ chồng họ đều dễ chịu, anh Alex ạ. Đó là một trong những điều gây thêm rắc rối.
- Bối cảnh tiêu biểu của hội chứng Munchausen đấy. Có thể những cô y tá đã yêu quý họ.
Cô gật đầu.
- Thế còn những điều khác là gì? - Tôi hỏi.
- Những điều khác nào?
- Những điều đã gây thêm rắc rối ấy.
Cô nhắm mắt rồi lấy tay dụi, một lúc sau mới đáp lời:


- Những điều khác ấy à, nghe có vẻ máu lạnh và đầy tính cách chính trị. Đó chính là con người bọn họ. Những con người có vai trò xã hội, có vai trò chính trị. Tên đứa bé là Cassie Brooks Jones - nghe có thấy quen không?
- Không - Tôi đáp - Jones là cái gì đó mà tôi không thể nhớ nổi.
- Jones, như là trong tên Charles L.Junior ấy. Nhà tài phiệt khét tiếng ấy? Giám đốc quản lý ngân sách đầu tiên của bệnh viện ấy?
- Tôi không biết anh ta.
- Cũng đúng thôi - anh đã không đọc bản tin của bệnh viện. Này nhé, khoảng tám tháng trước, anh ta là Chủ tịch Hội đồng quản trị. Rồi đã xảy ra một cú cải tổ lớn.
- Cải tổ ngân sách à?
- Còn gì khác nữa chứ. Tôi cho anh thấy phả hệ của họ đây: Con trai duy nhất của Charles Junior là Charles Đệ tam - giống như trong cung đình ấy. Anh ta thường được gọi là Chip - cha của Cassie. Người mẹ là Cindy. Đứa con trai đã mất tên là Chad - Charles Đệ tứ.
- Tất cả đều bắt đầu bằng chữ C - Tôi nói - Vẻ như họ khoái sự trật tự.
- Kệ họ. Vấn đề chính là ở chỗ Cassie là đứa cháu duy nhất của Charles con. Có thấy kỳ lạ không, anh Alex? Thế là hiện nay tôi đang có một bệnh nhân Munchausen thế thân tiềm tàng, và bệnh nhân ấy là đứa cháu duy nhất của người đã thủ tiêu chế độ uống cà phê miễn phí trong bệnh viện.

Chú thích :
(1) Điểm số đo tình trạng sức khoẻ của một đứa trẻ khi sinh ra căn cứ vào nhịp tim, khả năng hô hấp, màu da, độ căng của cơ thể và khả năng phản ứng, mỗi thứ được 2 điểm x 5 = 10 điểm
(2) Phép thử tâm lý do bác sĩ Bailey sáng tạo ra.
(3) Một sự rối loạn tâm lý khiến người ta giả ốm nặng để được điều trị hay cho vào bệnh viện

[ Tự động gộp bài ]

++++++++++++++++++++++



Chương 3

Chúng tôi đứng dậy, Stephanie nói:
- Nếu anh không phản đối, chúng ta có thể đi lên tầng luôn.
- Tập thể dục buổi sáng à? Được chứ.
- Anh đã ở cái tuổi băm nhăm rồi - Stephanie vừa nói vừa chỉnh sửa quần áo và đóng cúc cho chiếc áo khoác trắng của mình - và sự trao đổi chất cơ bản đã trở nên suy nhược rồi. Anh cần phải tập thật nhiều để không bị nổi u bướu quanh người. Ngoài ra, cầu thang máy vẫn chạy theo đồng hồ thời gian valium.
Chúng tôi đi bộ ra tới cửa chính của quán ăn tự phục vụ. Những bàn ăn hoàn toàn trống rỗng. Một công nhân vệ sinh trong bộ đồng phục xám đang lau sàn; chúng tôi phải bước thận trọng để không bị trượt chân.
Tôi nói:
- Thang máy tôi đi để tới phòng làm việc của cô bây giờ đã chuyển sang sử dụng chìa khoá rồi. Tại sao lại cần đến các biện pháp an ninh như thế?
- Cái chính là phòng ngừa tội phạm chứ - Stephanie đáp - Chúng tôi là thế để tránh những bọn điên rồ ngoài đường phố xâm phạm vào nơi này. Trong chừng mực nào đó thì biện pháp này là hữu ích - thực tế đã có khá nhiều chuyện xảy ra, chủ yếu trong cá ca đêm.Mà anh cũng biết rồi đấy, cứ tối đến Đông Hollywood bao giờ chẳng nhiều chuyện.
Chúng tôi đi tới cửa. Lại một công nhân vệ sinh nữa xuất hiện, đang khoá cửa. Mặt anh ta lộ vẻ chán nản khi nhìn thấy chúng tôi rồi kéo cánh cửa cho chúng tôi qua.
Stephanie nói:
- Còn giảm cả giờ làm việc đấy - một sự cắt giảm ngân sách mới.
Khi ra tới ngoài hành lang, mọi thứ có vẻ như điên loạn. Các bác sĩ qua lại thành từng nhóm huyên náo, không khí tràn ngập những cuộc nói chuyện nhanh. Các gia đình lững thững đi không mục đích, đẩy những chiếc nôi có những đứa con thường xuyên phải vào bệnh viện.
Tại cửa thang máy đã hình thành một đám đông yên lặng, xếp thành vòng tròn như những khối người kết chặt, chờ đợi những cái thang máy hiện đã cùng dừng lại ở tầng thứ tư. Chờ đợi, luôn luôn là sự chờ đợi...
Khi chúng tôi bước vào cầu thang của tầng một, tôi nói:
- Vậy ở đây đã xảy ra vấn đề gì?

[ Tự động gộp bài ]
- Đó là những chuyện vẫn thường xảy ra ấy mà, nhưng giờ thì có tăng lên một chút - Cô đáp - Nào là ăn cắp xe hơi, phá hoại tài sản hay cướp giật. Trên đại lộ Sunset còn có cả chuyện chặn cướp nữa. Mấy tháng trước, có hay y tá đã bị tấn công trong bãi đậu xe ở bên kia đường.
- Tấn công tình dục ư? - Tôi hỏi, đồng thời dấn lên liền hai bước để theo kịp cô.
- Chuyện đó không được làm sáng tỏ. Cả hai người bọn họ đều không trở lại đây kể cụ thể câu chuyện thế nào. Họ là những y tá làm ca đêm không trong biên chế. Tôi chỉ nghe người ta nói lại rằng hai y tá ấy bị đánh khá nặng và bị cướp mất ví tiền. Cảnh sát đã cử một sỹ quan tới giảng bài an toàn cá nhân quen thuộc và thừa nhận rằng nếu bệnh viện không trở thành trại vũ trang thì không ai có thể làm gì để đảm bảo sự an toàn cả. Những nhân viên nữ kêu gào nhiều lần nên chính quyền mới hứa sẽ cho nhân viên an ninh tuần tra khu vực này nhiều hơn.
- Thế họ có làm như đã hứa không?
- Tôi cho là có - anh cũng thấy có thêm nhiều cảnh sát ở các bãi đậu xe và kể từ đó thì không xảy ra vụ tấn công nào nữa. Nhưng sự bảo vệ đến cùng với hàng đống các thứ khác mà không ai đề nghị cả. Nào là đặt camera tại khuôn viên, làm thẻ ra vào mới, thương xuyên nhũng nhiễu chẳng hạn như chuyện anh đã phải trải qua ấy. Riêng tôi nghĩ chúng tôi đã tự đặt mình vào tay của chính quyền, để cho họ có cơ hội kiểm soát chúng tôi. Mà một khi họ đã có cơ hội làm việc đó thì còn lâu mới từ bỏ.
- Những sinh viên loại C trả thù chăng?
Cô dừng bước và quay mặt nhìn tôi, cười bẽn lẽn:
- Anh vẫn còn nhớ chuyện đó à?
- Nhớ rất rõ ấy chứ.
- Hồi đó tôi hơi lắm mồm phải vậy không?
- Nhiệt huyết của tuổi trẻ mà - Tôi đáp - Vả lại, bọn họ đáng bị thế - dám lên giọng kẻ cả với cô trước bất kỳ ai, cái gã bác sĩ...
- Đúng, bọn họ đúng là một lũ mặt dạn mày dày - Cô tiếp tục bước, nhưng chậm hơn - Làm việc mỗi ngày chỉ có vài giờ, ăn trưa dùng toàn rượu Mác-tin, xuống quán cà phê phì phèo thuốc lá xịn và gửi đến chúng tôi những bản ghi nhớ về tăng hiệu suất làm việc và giảm chi phí.
Một vài bước nữa, Stephanie dừng lại.
- Sinh viên loại C à. Tôi không thể nhớ được rằng tôi đã nói câu đó đấy - Đôi má cô ửng đỏ - Tôi đáng ghét lắm phải không?

thay đổi nội dung bởi: APOLONG, 01-04-2009 lúc 11:36 PM. Lý do: Gộp 2 bài gần nhau
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #3  
Cũ 01-04-2009, 11:36 PM
APOLONG's Avatar
APOLONG APOLONG is offline
Điều Hành Viên
 
Tham gia: 14/11/2008
Họ và tên: Apolong
Bài viết: 677
Xã: Tình khác
Gửi tin nhắn qua Yahoo chát tới APOLONG
Default Trả lời : [Truyện Kinh Dị] - Vũ Điệu Quỷ - [+15]

- Phải nói là đầy cảm hứng chứ, Stephanie.
- Đúng hơn là toát mồ hôi. Những ngày ấy thật điên rồ quá, anh Alex ạ. Hoàn toàn điên rồ.
- Vậy đấy - Tôi nói - nhưng đừng quên những gì chúng ta đã làm được: đòi được tiền lương công bằng cho các đồng nghiệp nữ này, cha mẹ bệnh nhân có được phòng ngủ tại bệnh viện này và còn có cả phòng giải trí nữa.
- Và tất nhiên là cả cà phê miễn phí dành cho nhân viên của bệnh viện.
Cô bước đi thêm vài bước nữa rồi nói:
- Tuy nhiên, anh Alex ạ, phần lớn những gì chúng ta tập trung vào dường như lại bị chệch hướng. Chúng ta tập trung vào từng cá nhân nhưng vấn đề lại ở bộ máy. Một đám sinh viên loại C đi rồi thì có đám khác tới, và vấn đề vẫn cứ tồn tại, không bao giờ được giải quyết cả. Đôi khi tôi tự hỏi phải chăng tôi đã ở nơi này quá lâu rồi. Nhìn anh bây giờ tôi thấy anh hạnh phúc hơn những ngày ấy quá nhiều.
- Cô cũng vậy đấy - Tôi đáp và nghĩ tới điều cô vừa nói về việc sẽ cố ngoi lên chức trưởng khoa.
- Tôi á? - Cô cười - Anh tế nhị nên mới nói thế thôi, chứ trường hợp của tôi hoàn toàn không có chút hạnh phúc cá nhân nào. Chỉ có một cuộc sống thanh liêm, trong sạch thôi.
Tầng sáu là nơi dành cho trẻ nhỏ từ một đến mười một tuổi không cần sự điều trị bằng công nghệ cao. Hàng trăm giường bệnh ở phòng phía Đông chiếm mất hai phần ba không gian tầng này, một phần ba không gian còn lại dành cho một phòng bệnh tư 20 giường ở phía Tây, cách ly với phòng phía Đông bằng mấy cánh cửa gỗ tếch, có ghi dòng chữ bằng đồng: Phòng đặc biệt của Hannah Chapell.
Phòng của Chapell à. Nơi này không dành cho dân thường và thực tập sinh, được chăm sóc bởi những người có tài, những người vào đây thường có bảo hiểm và séc cá nhân, không chịu sự chi phối của Medi-Cal.
Có nghĩa là nơi đây có loa nghe nhạc giấu ở trên trần, sàn phòng được trải thảm chứ không phải trải vải sơn lót nhà, một phòng thường dành cho trên 3 người, có ti vi bật cả ngày, mặc dù vẫn là những cái máy đen trắng.
Sáng nay, hầu như tất cả 20 phòng dều không có bệnh nhân. Ba y tá có vẻ mặt chán chường đứng phía sau một chiếc bàn thuốc tại phòng y tá. Cách đó vài mét, một y tá phụ trách buồng đang ngồi đánh móng tay.
- Chào bác sĩ Eves - Một y tá lên tiếng. Miệng chào Stephanie nhưng người này lại nhìn tôi không mấy thân thiện. Tôi phân vân không rõ lý do nhưng vẫn cứ nở nụ cười. Bà ta quay mặt chỗ khác. Bà ta khoảng 50 tuổi, béo, lùn, da sần sùi, cằm dài, tóc nhuộm vàng. Chiếc áo màu xanh lơ của bà ta có diềm màu trắng. Bên trên mái tóc cứng đơ là chiếc mũ y tá chiếu lệ. Đã lâu lắm rồi tôi không nhìn thấy loại trang phục này.
Hai y tá khác, đều là người Philipines ở độ tuổi 20, nhìn nhau chằm chằm rồi vụt đi như thể bị thúc bởi một cái đinh ba bí ẩn nào đó.
Stephanie nói:
- Chào chị Vicki. Con bé ấy hiện ra sao rồi?
- Đến nay vẫn ổn.


Với tay qua, bà y tá tóc vàng rút một bệnh án ra khỏi cái khe có đánh dấu phòng 505 và đưa cho Stephanie. Móng tay bà ta cụt lủn và bị cắn lởm chởm. Bà lại nhìn tôi. Sức thôi miên bằng mắt ấy không có tác dụng với tôi.
- Đây là bác sĩ Delaware - Stephanie giới thiệu, tay tiếp tục lật giở các trang bệnh án - chuyên gia tư vấn tâm lý của chúng ta. Thưa bác sĩ Delaware, đây là chị Vicki Bottomley, y tá chăm sóc chính của Cassie.
- Cindy có nói cho tôi biết là anh sẽ tới đây - Bà ta nói nghe cứ như đang ca thán một tin xấu. Stephanie tiếp tục đọc bệnh án.
- Rất vui được gặp bà - Tôi nói.
- Gớm, tôi cũng rất vui được gặp anh - Giọng điệu sưng sỉa vẻ đầy thách đó của bà ta khiến Stephanie phải ngửng mặt nhìn lên.
- Mọi thứ ổn cả đấy chứ, chị Vicki?
- Vẫn cứ mơn mởn đào tơ - Bà đáp, miệng cười đánh toe một cái như tát vào mặt người khác - Mọi thứ đều ổn. Con bé ăn gần hết chỗ cháo buổi sáng và uống thuốc theo đơn.
- Thuốc gì?
- Chỉ là thuốc Tylenol ấy mà. Nó uống khoảng một giờ trước. Cindy nói rằng con bé bị đau đầu...
- Tylenol số một à?
- Vâng, thưa bác sĩ Eves, chỉ là loại thuốc dành cho trẻ con, loại thuốc nước, uống một thìa cà phê thôi, đã được ghi rõ trong đó rồi - Bà ta chỉ tay vào cuốn bệnh án.
- Vâng, tôi thấy rồi - Stephanie đáp, và lại tiếp tục đọc - À, hôm nay thế là ổn, chị Vicki ạ, nhưng lần sau thì không được cho uống thuốc - kể cả thuốc bán không cần đơn - khi chưa được tôi đồng ý đấy nhé. Tôi cần phải kiểm sát mọi thứ được đưa vào miệng con bé, ngoài đồ ăn và thức uống. Chị đã rõ chưa?
- Rõ - Bottomley đáp, rồi lại cười - Không hề xảy ra vấn đề gì cả. Tôi chỉ nghĩ rằng...
- Không có hại gì cả đâu, Vicki ạ - Stephanie cướp lời. Cô với tay qua và vỗ vào vai người y tá - Tôi dám chắc rằng nếu trình với tôi thì tôi cũng đã cho phép dùng Tylenol. Vấn đề chỉ là vì đứa bé nà có một bệnh sử đặc biệt nên chúng ta cần phải tuyệt đối cẩn thận để xác định các phản ứng thuốc mà thôi.
- Vâng, thưa bác sĩ Eves. Vậy còn điều gì nữa không?
Stephanie tiếp tục đọc cuốn bệnh án, rồi gấp nó lại và đưa trả cho bà y tá.
- Không, hiện tại đã xong trừ phi chị muốn báo cáo điều gì.
Bottomley lắc đầu.
- Vậy thì xong rồi. Bây giờ tôi sẽ vào và giới thiệu bệnh nhân với bác sĩ Delaware. Có còn điều gì về Cassie mà chị muốn chia sẻ với chúng tôi không?
Bottomley nhìn chằm chằm vào Stephanie một giây rồi quay sang phía tôi, mắt gườm gườm.
- Bọn họ chẳng có bệnh tật gì ca,rất họ hoàn toàn bình thường.
Tôi nói:


- Tôi nghe nói Cassie thường rất sợ hãi khi các bác sĩ khám bệnh và cho uống thuốc.
Bottomley chống tay ngang hông:
- Đến anh cũng sợ bị tiêm chọc nhiều như thế chứ nói gì đến con bé ấy.
Stephanie nói:
- Kìa chị Vick...
- Tất nhiên rồi - Tôi vừa cười vừa đáp - Đó là phản ứng hoàn toàn bình thường, nhưng đôi khi sự hoảng sợ bình thường co thể được giảm đi nhờ vào sự trợ giúp của biện pháp điều trị hành vi.
Bottomley khẽ cười trong họng:
- Biết đâu đấy lại được. Tôi chúc anh may mắn.
Stephanie định nói điều gì đó. Tôi liền cầm lấy cánh tay cô và nói:
- Tại sao chúng ta không tiến hành ngay nhỉ?
- Vâng - Cô quay sang nói với Bottomley - Hãy nhớ nhé, không được cho uống thuốc gì ngoài thức ăn và thức uống đấy.
Bottomley vẫn không ngớt cười:
- Vâng, thưa bác sĩ. Nếu bây giờ đã xong, tôi xin rời khỏi đây trong vài phút.
Stephanie nhìn đồng hồ:
- Nghỉ giải lao rồi sao?
- Không. Tôi chỉ muốn xuống cửa hàng đồ lưu niệm mua cho Cassie một con LuvBunny - con thỏ nhồi bông ấy mà. Cô có xem những bộ phim hoạt hình trên ti vi không? Con bé ấy thích thứ đó lắm. Tôi nghĩ, có hai người ở đó rồi thì con bé chắc cũng sẽ chịu yên một lát.
Stephanie nhìn tôi. Bottomley nhìn theo tỏ vẻ hài lòng. Bà ta lại cười khùng khục trong họng và bỏ đi. Điệu đi uốn éo khá nhanh. Cái mũ trắng nhấp nhô dọc theo hành lang vắng giống như con diều trong gió.
Stephanie nắm lấy cánh tay tôi và đẩy ra khỏi phòng y tá.
- Xin lỗi anh Alex. Tôi chưa từng thấy bà ta như thế bao giờ.
- Có phải trước kia bà ta cũng từng là y tá của Cassie không?
- Nhiều lần rồi - có lẽ là ngay từ lần đầu con bé vào viện. Bà ta và Cindy có cảm tình đặc biệt với nhau và chính Cassie cũng thích bà ấy. Khi Cassie vào viện, bố mẹ nó liền yêu cầu bà ấy làm y tá chăm sóc riêng cho nó.
- Bà ta có vẻ khá ích kỷ nhỉ.
- Bà ấy đúng là có xu hướng muốn nhúng tay vào mọi việc, nhưng tôi nghĩ đó là chuyện tích cực. Các gia đình đều quý bà ấy - Bà là một trong những y tá tận tuỵ nhất mà tôi từng cộng tác. Với tình hình tinh thần hiện nay, thật khó mà tìm được sự tận tuỵ.
- Bà ta có tận tuỵ tới mức đến tận nhà bệnh nhân trợ giúp không?
- Theo tôi biết thì không. Chỉ có vài lần tôi làm việc đó thôi, với một bệnh nhân nội trú ngay từ ngày đầu. Mục đích chuyến viếng thăm ấy là để đặt máy theo dõi giấc ngủ - Stephanie lấy tay che miệng - Không lẽ anh nghĩ bà ấy có điều gì đó liên quan tới...


- Tôi không nghĩ điều gì cả - Tôi đáp. Ngay lúc đó tôi cũng tự hỏi liệu mình có nghĩ thế không bởi vì Bottomley đã làm tôi hơi bực mình - Tôi chỉ buột miệng hỏi thế thôi.
- Hừm... thôi rồi, đó cũng là một ý kiến. Y tá mắc bệnh Munchausen à? Tôi nghĩ với kiến thức y học căn bản của bà ấy thì chuyện này có khả năng lắm.
- Thì đã có khá nhiều trường hợp xảy ra rồi - Tôi đáp - y tá và bác sĩ muốn được chú ý, và họ thường là những người rất ích kỷ. Nhưng vấn đề của Cassie luôn bắt đầu từ nhà và được giải quyết ở bệnh viện thì bà ta không nằm trong vòng nghi vấn, nếu như Vicki không phải là người thường trú tại nhà của Jones.
- Thế thì không. Chí ít thì đó cũng là những gì tôi được biết tới nay. Chắc chắn là như vậy. Nếu bà ấy như vậy thì tôi phải biết chứ.
Stephanie tỏ vẻ nghi hoặc. Một vẻ mặt bị khuất phục. Tôi nhận ra vụ này gây ra sức ép với cô thế nào.
- Tôi muốn biết tại sao bà ta lại thù hằn với tôi như thế - Tôi nói - Có lẽ không phải vì những lý do cá nhân mà có thể là điều gì đó liên quan tới gia đình này. Nếu Vicki và người mẹ kia thân thiết với nhau, trong khi Vicki lại không thích tôi thì có thể khiến việc khám chữa của tôi trở nên không thuận lợi.
- Lập luận của anh có lý... Tôi không hiểu điều gì đã ám ảnh bà ấy như vậy.
- Chắc là cô chưa nói gì với bà ta về chuyện cô nghi ngờ Cindy đấy chứ?
- Không. Anh là người đầu tiên tôi bàn về chuyện đó. Đó là lý do tại sao tôi yêu cầu bà ấy không cho uống thuốc nữa để tìm ra các phản ứng của thuốc. Tôi cũng đã yêu cầu Cindy không mang thức ăn từ nhà tới vì lý do tương tư. Vicki và những y tá làm ca khác được yêu cầu ghi chép lại tất cả những gì Cassie ăn - Stephanie chau mày - Tất nhiên, nếu Vicki cố tình bước qua giới hạn ấy thì bà ấy có thể không làm theo yêu cầu của tôi. Anh có muốn tôi chuyển bà ấy sang chỗ khác không? Tìm y tá mới là chuyện sẽ làm nhọc tôi một chút, nhưng tôi có thể làm được chuyện này nhanh thôi.
- Cô không phải vì tôi mà làm thế. Hiện tại, cứ để cho mọi sự diễn ra bình thường.
Chúng tôi đi tới phía sau phòng y tá. Stephanie lấy cuốn bệnh án và lại nghiền ngẫm. Một lúc sau cô mới nói:
- Mọi thứ có vẻ ổn cả. Nhưng dù sao tôi cũng phải nói chuyện với con bé một chút.
- Để tôi đọc qua một chút xem sao đã - Tôi đề nghị.
Cô đưa cho tôi cuốn bệnh án. Nét chữ ngay ngắn và ghi chép chi tiết thường thấy của cô. Bên trong còn có biểu đồ về cơ cấu gia đình và tôi đã bỏ chút thời gian ra xem xét.
- Không thấy có tên ông bà ngoại ở đây nhỉ.
Stephanie lắc đầu:


- Cindy mất cha mẹ khi cô ấy còn nhỏ tuổi. Chip cũng mất mẹ khi anh ấy ở tuổi niên thiếu. Ông Chuck là người ông duy nhất còn sống.
- Thế ông ấy có thường tới đây thăm cháu không?
- Thỉnh thoảng. Ông ta là người khá bận rộn.
Tôi tiếp tục đọc:
- Cindy mới chỉ 26 tuổi... Có thể bà Vicki là một hình tượng người mẹ đối với cô ấy.
- Có thể -Stephanie đáp - Dù gì, tôi cũng sẽ để mắt tới bà ấy mới được.
- Stephanie, tôi xin cô đừng làm gì mạnh tay lúc này. Tôi không muốn bà Vicki hay cô Cindy nghĩ tôi là người gây ra phiền toái cho họ. Hãy để tôi có cơ hội được hiểu bà ấy đã. Biết đâu bà ấy lại trở thành một đồng minh cũng nên.
- Được rồi - Cô đáp - Chuyện quan hệ với người này, người kia là đất của anh. Nhưng hãy báo ngay cho tôi hay nếu bà ấy tiếp tục gây khó chịu nhé. Tôi không muốn bất cứ thứ gì cản trở việc giải quyết vấn đề này.
Căn phòng tràn ngập những con thỏ nhồi bông LuvBunny - nào là trên bậu cửa sổ, trên bàn để đèn, trên cái khay đặt đầu giường, trên nóc tivi. Đây đúng là một buổi tiếp đón long trọng bằng toàn nhưng thứ đồ xanh đỏ nhe răng.
Thành giường đã được hạ thấp xuống. Một đứa bé xinh xắn đang nằm ngủ - một đống rất nhỏ gần như không làm phồng cái chăn đắp.
Khuôn mặt hình trái tim của con bé nghiêng về một phía; miệng nó hồng tươi, đang mở. Da màu nước sữa, đôi má mũm mĩm, mũi như mầm nhú. Mái tóc bóng mượt, thẳng và đen dài tới tận vai. Mớ tóc phía trước ươn ướt dính vào trán. Bên trên đường viền chăn là một vòng cổ. Một tay được giấu đi; tay còn lại như có gơn sóng đang nắm chặt lấy mấy sợi chăn. Ngón tay cái của nó to bằng trái đậu lima.
Chiếc ghế sô-pha đặt cạnh cửa sổ được mở ra thành giường đơn trông gọn ghẽ. Chăn gấp vuông thành phẳng cạnh như trong quân đội. Gối được vuốt phẳng như vỏ trứng. Cái túi đựng đồ tạm bằng nhựa vinyl nằm trên sàn nhà cạnh khay thức ăn đã hết.
Người phụ nữ trẻ ngồi vắt chân chữ ngũ rìa cái đệm, đang đọc tờ Chỉ dẫn ti vi. Ngay khi nhìn thấy chúng tôi, chị ta liền đặt tờ tạp chí xuống và đứng dậy.
Người phụ nữ trẻ cao khoảng 1 mét 62, thân hình chắc khoẻ, eo hơi to. Tóc chị ta cũng đen óng như của đứa con gái, rẽ đường ngôi giữa, buộc tạm ra phía sau và tết thành dải tóc dài gần chấm eo. Khuôn mặt như được đúc cùng một mẫu với Cassie, vì tuổi tác nên đã dài thêm ra một chút thành hình trái xoan hoàn hảo. Mũi chị ta rất đẹp; miệng thẳng, rộng không trang điểm với nước da thẫm tự nhiên. Đôi mắt to, đen giờ đã đỏ ngầu.
Chị ta không hề trang điểm, nước da có vẻ được chăm sóc cẩn thận. Đó là một phụ nữ còn mang dáng dấp thiếu nữ. Đã ở tuổi 26 nhưng nhìn qua dễ nhầm chị là nữ sinh đại học.
Một tiếng động nhẹ như tiếng thở phát ra từ chiếc giường. Đó là tiếng thở dài của Cassie. Tất cả chúng tôi đều chú mắt nhìn vào con bé. Mí mắt nó vẫn khép nhưng đang lay động. Những sợi ven xanh nổi rõ dưới da. Con bé trở mình xoay mặt khỏi phía chúng tôi.
Tôi nghĩ tới một con búp bê sứ chưa tráng men.
Xung quanh chúng tôi, những con thỏ nhồi bông LuvBunny đang liếc nhìn.
Cindy Jones nhìn xuống con gái, với tay qua gạt lọn tóc ra khỏi mắt con bé.
Quay lại nhìn chúng tôi, chị vội đưa tay sờ quần áo, như thể tìm xem có cái cúc nào đó chưa được đóng không. Quần áo chị mặc rất giản dị - cái áo sơ mi vải bông, chiếc quần jeans đã bạc và đôi dép quai hậu đế trung bình. Tay chị đeo chiếc đồng hồ nhựa màu tím hiệu Swatch. Không phải một người ăn mặc sang trọng giống như các con dâu của những yếu nhân mà tôi mong đợi.
- Ôi - Stephanie nói thầm - có vẻ như ai đó đang định ngủ một giấc ngắn ấy. Chị có ngủ được không, Cindy?
- Được một ít - Giọng chị ta nghe nhẹ và dễ chịu. Chị không phải thì thầm như Stephanie.
- Đệm của chúng tôi chắc không được tốt lắm, phải vậy không?


- Tôi thấy ổn, thưa bác sĩ Eves - Nụ cười của chị ta mang đầy vẻ mệt nhọc - Thực ra, Cassie đã ngủ rất ngon. Nó tỉnh giấc một lần, khoảng vào lúc 5 giờ, và cần phải ru mới ngủ lại. Tôi đã bế và hát ru một lúc thì nó mới ngủ trở lại vào khoảng 7 giờ. Tôi nghĩ, có lẽ đó là lý do tại sao đến giờ nó vẫn còn ngủ được.
- Bà Vicki nói rằng con bé bị đau đầu.
- Đúng thế, vào lúc nó tỉnh giấc ấy. Bà Vicki đã cho nó uống dung dịch Tylenol và dường như có tác dụng.
- Cho con bé uống Tylenol là đúng, chị Cindy ạ. Nhưng sau này, tất cả thuốc thang - ngay cả những thứ thuốc bán không cần kê đơn - cũng sẽ phải được sự đồng ý của tôi mới cho con bé uống. Việc này chỉ là để cho nó được an toàn thôi.
Đôi mắt đen mở to:
- Ôi, vâng. Xin bác sĩ thứ lỗi.
Stephanie mỉm cười.
- Không có chuyện gì lớn đâu. Tôi chỉ muốn cẩn thận thôi. Chị Cindy này, đây là bác sĩ Delaware, chuyên gia tâm lý mà chúng ta đã từng bàn tới ấy.
- Xin chào bác sĩ Delaware.
- Xin chào chị Jones.
- Cứ gọi tôi là Cindy - Chị chìa bàn tay nhỏ nhắn ra phía tôi và cười bẽn lẽn. Tôi cũng đưa tay ra và biết rằng công việc của tôi sẽ không hề dễ dàng.
Stephanie nói:
- Như tôi đã giới thiệu với chị, bác sĩ Delaware là chuyên gia về sự sợ hãi ở trẻ em. Ông ấy chính là người có thể giúp Cassie vượt qua được nỗi sợ hãi ở đây. Ngay bây giờ, ông ấy muốn được nói chuyện với chị, nếu như chị không phiền gì.
- Ô, chắc chắn là được - Cindy sờ vào dải tóc và và tỏ vẻ lo lắng.
- Hay lắm - Stephanie đáp - Nếu chị không cần gì ở tôi nữa thì tôi xin đi đây.
- Hiện nay thì tôi chưa nghĩ ra điều gì, thưa bác sĩ Eves. Tôi cũng vừa mới định hỏi xem bác sĩ đã... có kết luận gì chưa thôi?
- Cho tới giờ thì chưa, chị Cindy ạ. Điện não đồ thấy hoàn toàn bình thường. Nưhng, như chúng ta đã thảo luận với nhau, với những trẻ ở tuổi này, cái đó không phải là kết luận. Các y tá chưa từng ghi lại bất cứ hành vi co giật nào. Chị có thấy gì không?
- Không... không hẳn.
- Không hẳn à? - Stephanie bước lại gần hơn. Cô chỉ cao hơn Cindy một chút nhưng dường như to ngang hơn khá nhiều.
Cindy Jones cắn môi trên rồi nhả nhanh ra:
- Không - có lẽ là không quan trọng.
- Được rồi chị Cindy. Xin chị hãy nói cho tôi biết tất cả mọi thứ, kể cả trường hợp chị cho rằng nó là không phù hợp.
- Tôi chắc chắn là không có gì cả, nhưng đôi khi tôi tự hỏi không biết có phải con bé đang để tâm đi đâu đó không - không hề lắng nghe khi tôi nói chuyện với nó? Hình như nó đang nhìn chằm chằm vào khoảng không - giống như chứng động kinh dạng nhẹ ấy.
- Chị bắt đầu nhìn thấy điều này từ khi nào?
- Hôm qua, sau khi chúng tôi được nhập viện.
- Chị không nhìn thấy hiện tượng này ở nhà bao giờ à?
- Tôi... không. Nhưng có thể là chuyện đó đã từng xảy ra nhưng tôi không nhìn thấy. Hoặc có thể chẳng có gì cả. Có lẽ là thế - tôi không biết nữa.
Khuôn mặt xinh xắn bắt đầu nặng trĩu.


Stephanie vỗ vỗ vai chị ta. Cindy dần bình tĩnh lại như thể cảm nhận được nhiều an ủi từ cái vỗ vai ấy.
Stephanie bước lùi lại, ngừng vỗ vai người mẹ trẻ.
- Thế chuyện con bé nhìn chằm chằm vào khoảng không có thường xảy ra không?
- Khoảng một đến hai tuần mỗi ngày. Có thể chuyện đó không có gì đâu - chỉ là nó tập trung tinh thần thôi. Con bé luôn rất giỏi trong việc tập trung tinh thần - những lúc chơi ở nhà, nó tập trung tư tưởng rất tốt.
- Thế thì tốt - chuyện con bé có khả năng tập trung chú ý ấy.
Cindy gật đầu nhưng có vẻ vẫn chưa an tâm.
Stephanie lôi cuốn sổ hẹn gặp từ trong túi áo khoác ra và xé trang cuối ra rồi đưa cho Cindy.
- Đây, chị cầm lấy cái này. Lần sau nếu chị thấy con bé cứ nhìn chằm chằm, hãy ghi lại chính xác thời gian và gọi Vicki hay ai đó đang trực vào để quan sát, được chứ?
- Được rồi. Nhưng chuyện này không kéo dài đâu, thưa bác sĩ Eves. Nó chỉ xảy ra trong vài giây thôi.
- Hãy làm tất cả những gì chị có thể - Stephanie đáp - Còn bây giờ, tôi sẽ đi chỗ khác để chị và bác sĩ Delaware làm quen với nhau.
Dừng lại giây lát để nhìn con bé, Stephanie mỉm cười với cả hai chúng tôi rồi ra đi.
Khi cánh cửa khép lại, Cindy đưa mắt nhìn xuống giường.
- Để tôi gấp lại cái này cho ông lấy chỗ ngồi nhé.
Da chị ta cũng hiện lên những vằn ven xanh lờ mờ. Mạch máu nơi thái dương chị ta đang đập mạnh.
- Thế thì để tôi giúp chị một tay - Tôi đề nghị.
Câu đề nghị của tôi dường như làm chị ta giật mình.
- Không, mình tôi làm cũng được mà.
Cindy cúi xuống nắm lấy tấm đệm và nhấc lên. Tôi cũng làm thế. Hai chúng tôi cùng hợp sức chuyển chiếc giường đơn thành ghế sô pha.
Chị vuốt ve tấm nệm tựa lưng, đứng lui lại và nói:
- Xin ông để tôi tự làm được rồi.
Cảm thấy mình như đang ở trong nhà thổ, tôi đành làm theo.
Chị ta đi tới chiếc ghế màu xanh và nhặt những con thỏ nhồi bông LuvBunny đặt ngay ngắn lên chiếc bàn nhỏ để đèn. Chị kéo chiếc ghế đối diện với ghế sô-pha và ngồi xuống, chân đặt ngay ngắn xuống sàn, hai tay đặt lên đùi.
Tôi với tay qua chỗ bậu cửa sổ cầm một con thú nhồi bông lên xoa lông nó. Nhìn ra ngoài qua cửa sổ bằng kính, đỉnh những cây cối trong vườn Griffith có màu xanh đen và lờ mờ như trong mây.
- Đẹp quá - Tôi nói - Đây là quà tặng sao?
- Một vài con là quà tặng thôi. Một vài con chúng tôi mua từ nhà. Dù đến đây, chúng tôi vẫn muốn Cassie cảm thấy như ở nhà.
- Phải chăng bệnh viện đã trở thành ngôi nhà thứ hai của con bé?
Cindy nhìn tôi chằm chằm. Nước mắt đã tràn đầy đôi mắt đen làm cho nó to hơn, sáng hơn. Trên khuôn mặt Cindy thể hiện vẻ hổ thẹn.
Hổ thẹn hay cảm thấy tội lỗi?
Chị ta đưa nhanh tay lên để che nét mặt ấy.
Chị thầm khóc một lát.
Tôi lấy khăn giấy từ chiếc hộp trên bàn đặt ở đầu giường ra và chờ đợi.



+++++++++++++++++++++



Chương 4

Cindy bỏ tay che mặt ra và nói:
- Ông thứ lỗi cho tôi nhé.
- Chị không cần phải nói thế - Tôi đáp - Chẳng có gì gây căng thẳng bằng chuyện có đứa con bị ốm đâu.
Chị ta gật đầu.
- Tồi tệ nhất là không biết... nhìn thấy con bé đau đớn mà không biết... Ước gì có ai đó chẩn đoán được con bé mang bệnh gì.
- Những triệu chứng khác của bệnh đã được giải quyết rồi. Nên chắc lần này cũng sẽ ổn thôi.
Kéo kím tóc qua một bên vai, chị ta lấy ngón tay kẹp đuôi tóc lại rồi nói:
- Tôi cũng hi vọng là vậy. Nhưng...
Tôi cười nhưng không nói gì.
Chị ta nói tiếp:
- Những triệu chứng khác... tiêu biểu hơn. Thông thường ấy - ông hiểu chứ.
- Chị muốn nói rằng đó là những bệnh thường gặp ở thời thơ ấu?
- Vâng - chẳng hạn như ho, tiêu chảy. Những đứa trẻ khác cũng mắc bệnh như thế. Có thể không nghiêm trọng như con bé nhà tôi nhưng có nghĩa là bọn trẻ vẫn thường bị, vì thế ta có thể hiểu được những thứ bệnh đó. Tuy nhiên, co giật... thì là chuyện bất bình thường.
- Đôi khi trẻ con vẫn thường bị co giật sau khi sốt cao - Tôi trấn an - Chuyện đó chỉ xảy ra một hay hai lần rồi không bị lại nữa.
- Vâng, tôi biết. Bác sỹ Eves đã nói cho tôi biết về điều này. Nhưng Cassie không bị sốt cao khi co giật. Những lần khác - khi con bé bị bệnh đường ruột ấy - thì lại có hiện tượng sốt. Khi ấy, nó sốt cao lắm, tới 41 độ ấy chứ - Cindy nghĩ mọi việc đã kết thúc. Nào ngờ, tự nhiên nó lại bị co giật - thực sự đáng sợ lắm. Tôi nghe thấy tiếng động trong phòng con bé - giống như là tiếng gõ ấy; tôi lao vào và thấy con bé co giật mạnh tới mức xương sườn nó kêu lách cách.
Môi chị ta bắt đầu run. Chị ta đưa một bàn tay lên giữ chặt môi, tay còn lại nắm chặt chiếc khăn giấy mà tôi đã đưa cho.


Tôi nói:
- Đáng sợ thật nhỉ.
- Phải nói là khủng khiếp - Cindy đáp, nhìn mắt tôi - nhưng điều tồi tệ hơn là tôi phải nhìn nó đau đớn mà không thể giúp gì được. Sự bất lực mới là điều kinh khủng nhất. Tôi biết, tốt nhất là ẵm con bé lên, nhưng... Mà ông có con chưa?
- Chưa.
Đôi mắt Cindy rời khỏi khuôn mặt tôi, như thể chị ta đột ngột cảm tôi hấy mất hứng thú. Chị thở dài và đứng dậy đi tới giường, tay vẫn cầm chiếc khăn giấy đã nhàu nát. Chị ta cúi xuống kéo chăn lên cao hơn quanh cổ con bé, và hôn vào một bên má nó. Nhịp thở của Cassie nhanh lên trong giây lát, rồi lại trở nên đều đều. Cindy vẫn ngồi ở cạnh giường, quan sát nó ngủ.
- Con bé thật xinh - Tôi nói.
- Nó bầu bĩnh và ngoan lắm.
Chị ta đưa tay sờ trán Cassie rồi rụt tay lại thả lỏng xuống cạnh sườn. Sau khi nhìn xuống sàn vài giây, chị liền đứng dậy trở về ghế.
Tôi nói:
- Chuyện của con bé ấy mà, đến nay vẫn chưa có bằng chứng cho thấy co giật làm cho bệnh nhân đau đớn.
- Bác sỹ Eves cũng nói thế - Cassie đáp, giọng nghi hoặc - Tôi cũng hy vọng là vậy... nhưng giá mà ông được chứng kiến con bé sau khi bị co giật, ông sẽ thấy nó mệt mỏi như thế nào.
Chị ta quay lại và nhìn ra ngoài cửa sổ. Tôi chờ đợi một lát rồi nói:
- Ngoại trừ bị đau đầu ra, con bé ổn cả chứ?
- Vâng. Ý tôi là trong thời gian ngắn ngủi nó tỉnh giấc.
- Có đúng là con bé bị đau đầu lúc 5 giờ sáng nay không?
- Vâng. Khi tỉnh dậy nó đã bị đau đầu.
- Lúc đó bà Vicki đang trực phải không?
Cindy gật đầu.
- Bà ấy làm hai ca liền - đến từ tối hôm trước để trực ca 11 giờ đến 7 giờ sáng và làm tiếp ca 7 giờ sáng đến 3 giờ chiều.
- Thật tận tuỵ.
- Bà ấy tận tình lắm, giúp đỡ mẹ con tôi rất nhiều. Chúng tôi thật may mắn vì đã được bà ấy chăm sóc.
- Bà ấy có bao giờ tới nhà chị không?


Câu hỏi đó khiến chị ta ngạc nhiên.
- Chỉ vài lần thôi - không phải đến để chăm sóc cho con bé, mà là đến chơi. Con thỏ nhồi bông LuvBunny của Cassie là do bà ấy mua tặng đấy. Bây giờ thì Cassie thích chúng lắm rồi.
Vẻ ngạc nhiên vẫn còn đọng trên nét mặt chị ta. Thay vì giải toả sự ngạc nhiên ấy, tôi lại nói:
- Làm sao Cassie cho chị biết con bé bị đau đầu?
- Nó chỉ vào đầu và khóc. Con bé không nói cho tôi biết đâu, phải chăng ông cũng định hỏi điều này. Con bé chỉ mới nói được vài từ. Gọi con chó là con tró, gọi cái chai là cái trai. Nhưng kể cả có nói được vài từ như thế thì thỉnh thoảng nó vẫn dùng tay chỉ trỏ. Bác sỹ Eves nói rằng con bé bị chậm nói mất mấy tháng.
- Việc phải vào bệnh viện nhiều khiến một đứa trẻ chậm nói không phải là chuyện lạ. Nó không tồn tại vĩnh viễn đâu.
- Tôi cố gắng cho con bé tập nói ở nhà - nói chuyện với nó thật nhiều. Tôi còn đọc cho nó nghe khi nào có điều kiện.
- Tốt lắm.
- Đôi khi, con bé thích nhưng đôi khi lại không - nhất là sau những đêm nó khó ngủ.
- Có nhiều đêm nó bị khó ngủ không?
- Không nhiều, nhưng rất tệ cho nó.
- Chuyện thế nào?
- Nó tỉnh dậy như thể vừa trải qua một cơn ác mộng. Nó giãy, phá và khóc lóc. Tôi bế nó và thỉnh thoảng lại ru được nó ngủ trở lại. Nhưng cũng có lúc nó tỉnh lâu lắm - quấy ghê lên được. Đến sáng hôm sau đó thì nó thường bấn loạn tinh thần.
- Bấn loạn như thế nào?
- Thường khó tập trung. Bình thường thì nó có thể tập trung chơi được rất lâu - khoảng hơn một giờ. Những lúc như thế, tôi thường đọc sách cho nó nghe, nói chuyện với nó nhằm giúp nó phát triển khả năng nói. Ông có lời khuyên nào khác không?
- Nghe chị nói thì chị đã đi đúng hướng rồi - Tôi đáp.
- Đôi khi tôi có cảm giác con bé không nói bởi vì nó không cần phải nói. Tôi nghĩ tôi có thể biết được con bé muốn gì và đáp ứng luôn trước khi nó cần phải nói ra.
- Đó có phải là điều chị đã làm khi con bé bị đau đầu?
- Đúng thế. Con bé tỉnh dậy, quấy khóc. Điều đầu tiên tôi làm là sờ vào trán nó xem có ấm không. Tôi thấy trán nó vẫn mát. Tôi không ngạc nhiên - kiểu khóc của nó không phải là do sự sợ hãi gây ra mà có vẻ như là do đau đớn. Tới lúc này tôi có thể phân biệt được được hai kiểu khóc đó của nó. Vì thế tôi bắt đầu hỏi xem nó đau chỗ nào. Cuối cùng, nó chỉ lên đầu. Tôi biết chuyện này nghe không được khoa học nhưng người mẹ thường có sự đồng cảm với trẻ con - giống như cái ra đa ấy.

[ Tự động gộp bài ]
Chị ta liếc nhìn xuống giường.
- Nếu như kết quả X-quang của nó vẫn không trở lại bình thường vào chiều tối hôm đó thì có lẽ tôi đã lo sợ rồi.
- Vì chuyện đau đầu ư?
- Ông mà ở đây đủ lâu thì ông sẽ biết cả thôi. Tôi đã bắt đầu nghĩ tới điều tồi tệ nhất có thể xảy ra. Mỗi khi con bé khóc vào ban đêm vẫn làm tôi sợ lắm - tôi không biết trước được điều gì sẽ xảy ra.
Chị ta lại khóc và lấy chiếc khăn giấy lau mắt. Tôi lại đưa một chiếc khác cho chị ta.
- Tôi thực sự xin lỗi, bác sĩ Delaware ạ. Tôi chỉ không thể đứng nhìn con bé đau đớn.
- Tất nhiên - Tôi đáp - Thật trớ trêu, chính những thứ đang được làm để giúp con bé - như thử máu và các thủ tục điều trị - lại gây ra cho nó nhiều đau đớn nhất.
Chị ta hít một hơi sâu và gật đầu.
Tôi nói:
- Đó là lý do tại sao bác sĩ Eves yêu cầu tôi gặp chị. Có những thủ thuật tâm lý có thể giúp trẻ loại bỏ sự sợ hãi đối với quá trình điều trị tại bệnh viện, thậm chí đôi khi còn giảm được cả đau đớn nữa.
- Thủ thuật à - Chị ta nhắc lại đúng như các mày Vicki Bottomley đã làm nhưng không có giọng điều chao chát của bà y tá - Rất hay. Tôi sẽ rất biết ơn những gì ông có thể làm cho con bé. Nhìn con bé phải trải qua chuyện thử máu giống như... Thật khủng khiếp.
Tôi nhớ những gì Stephanie đã kể cho tôi về sự điềm tĩnh của chị ta trong quy trình điều trị.
Như thể đọc được suy nghĩ của tôi, Cindy nói:
- Cứ mỗi lần có ai đó bước qua cửa cùng với cái kim tiêm, trong lòng tôi lại thấy như đóng băng lại, mặc dù bề ngoài tôi vẫn tươi cười. Cái cười của tôi là vì Cassie. Tôi thực sự đã rất cố gắng không tỏ ra đau buồn trước mặt con bé nhưng tôi biết con bé cảm nhận được sự đau đớn trong lòng tôi.
- Sự đồng cảm?
- Chúng tôi rất gần gũi nhau - nó là con của tôi và là đứa con duy nhất. Chỉ cần nhìn tôi là nó hiểu được ngay. Tôi không biết giúp nó thế nào cả. Tôi không thể để con bé một mình với bọn họ.
Bác sĩ Eves cho rằng chị đã làm rất tốt.
Có cái gì đó ẩn chứa trong đôi mắt đen của Cindy. Một sự cứng rắn rất đột nhiên ư? Rồi chị ta cười mệt nhọc.
- Bác sĩ Eves thật tuyệt. Chúng tôi... À bà ấy đã... rất tốt với Cassie ngay cả khi Cassie đã khỏi bệnh. Tôi biết rằng những bệnh tật này của con bé cũng làm cho bà ấy rất vất vả. Mỗi lần phòng cấp cứu gọi bà ấy, tôi lại cảm thấy rất áy náy.
- Đó là công việc của cô ấy - Tôi đáp.
Vẻ mặt Cindy chứng tỏ tôi đã nói đúng điều băn khoăn trong lòng chị ta.
- Tôi đã cần đến bà ấy nhiều hơn là công việc đơn thuần.

thay đổi nội dung bởi: APOLONG, 02-04-2009 lúc 12:04 AM. Lý do: Gộp 2 bài gần nhau
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #4  
Cũ 01-04-2009, 11:42 PM
APOLONG's Avatar
APOLONG APOLONG is offline
Điều Hành Viên
 
Tham gia: 14/11/2008
Họ và tên: Apolong
Bài viết: 677
Xã: Tình khác
Gửi tin nhắn qua Yahoo chát tới APOLONG
Default Trả lời : [Truyện Kinh Dị] - Vũ Điệu Quỷ - [+15]

- Đúng thế - Tôi nhận ra con thỏ nhồi bông vẫn đang nằm trong tay mình. Lúc này tôi đang nắm chặt lấy nó. Tôi lấy tay vuốt bụng nó cho phẳng rồi trả lại bậu cửa sổ. Cindy nhìn tôi, vẩy vẩy bím tóc.
- Tôi không định ngắt lời ông - Chị ta nói - nhưng nghe ông nói về bác sĩ Eves làm công việc của bà ấy lại khiến tôi nghĩ về công việc của tôi. Đó là làm một người mẹ. Dường như tôi đã không làm tròn trách nhiệm của mình phải vậy không? Chẳng ai huấn luyện tôi để làm công việc này cả.
Chị ta nhìn đi chỗ khác.
- Này chị Cindy - Tôi vừa nói vừa cúi người về phía trước - đây là một công việc khó khăn lắm, không hẳn là một công việc bình thường.
Một nụ cười thoáng nở trên môi chị ta. Một nụ cười buồn của Đức mẹ Maria.
Lẽ nào Đức mẹ này lại là con ác quỷ trá hình?
Stephanie đã yêu cầu tôi phải thật rộng lượng nhưng tôi biết tôi đã bắt đầu bước đi từ sự nghi ngờ của cô ấy.
Chẳng nhẽ cứ nghi ngờ chị ta cho tới khi nào chị ta được chứng minh là vô tội hay sao?
Đây là điều mà Milo thường gọi là lối tư duy hạn chế. Tôi quyết định tập trung vào những gì đã tận mắt chứng kiến.
Cho tới lúc này thì chưa hề có biểu hiện bệnh học nào rõ rệt cả. Không có bất kỳ dấu hiệu nào về sự mất thăng bằng tâm lý, không có dáng dấp của sự đóng kịch nào được thể hiện, cũng không có biểu hiện của một người tìm kiếm sự chú ý một cách bệnh hoạn. Nhưng tôi vẫn tự hỏi liệu chị ta có phải đã thành công - theo cách riêng trong việc tập trung làm cân bằng bản thân mình. Khởi đầu, chị ta nói về Cassie và cuối cùng thì nói về sự thất bại trong việc làm mẹ của chính mình.
Rồi tôi lại nghĩ hay tôi đã khuyến khích sự thú nhận tội lỗi của chị ta? Tôi đã sử dụng vẻ mặt và ngôn từ của chuyên gia tâm thần để khơi gợi chị ta cởi mở tấm lòng?
Tôi nghĩ về cách chị ta cư xử - cái bím tóc được chị ta sử dụng như tràng hạt để trấn an, không có trang điểm, quần áo giản dị một cách lộ liễu đối với một phụ nữ ở địa vị của chị ta.
Tất cả những điều này có thể được xem như một vở kịch đảo nghịch. Trong căn phòng đầy những người có vai vế thì chắc chắn chị ta sẽ là người nổi bật.
Những thứ khác mắc kẹt trên chiếc sàng phân tích của tôi khi tôi cố đặt chị ta vào một hồ sơ người mắc hội chứng Munchausen thế thân.
Việc chị ta sử dụng một cách thành thạo những thuật ngữ của bệnh viện: sốt cao... làm hai ca.
Rồi là hội chứng tím tái.
Phải chăng đó là những thứ còn sót lại sau đợt huấn luyện kỹ thuật hô hấp của chị ta? Hay là sự hứng thú sử dụng ngôn từ y học một cách không tự chủ được? Chuyện sống lâu ngày tại nơi này cũng là điều đáng nói. Trong thời gian làm việc ở đây, tôi đã từng gặp những thợ ống nước, những bà nội trợ, những người đánh xe và những kế toán. Họ là cha mẹ của những đứa trẻ bị ốm kinh niên đến nay ăn, ngủ, sống luôn tại bệnh viện và cuối cùng lời nói của họ chẳng khác gì bác sĩ nội trú năm đầu. Tất nhiên, không ai trong số bọn họ từng đầu độc con cái mình.
Cindy sờ tay vào bím tóc và nhìn tôi.


Tôi cười, cố gắng tỏ vẻ bình tĩnh đối với chị ta. Trong đầu tôi chứa đầy ngờ vực về sự chắc chắn của Cindy rằng chị ta và Cassie có thể liên hệ với nhau ở một mức độ thần giao cách cảm.
Bởi vì những đứa con của người mẹ này đều có cuộc sống không hạnh phúc, không khoẻ mạnh.
Cindy vẫn nhìn tôi. Tôi biết không thể tiếp tục cân đong mọi sắc thái và tỏ ra thành thật được.
Tôi liếc nhìn đứa bé nằm ở giường, đúng là một con búp bê bằng sứ không tráng men.
Hay đó là con búp bê tà thuật của người mẹ này?
- Chị đã làm hết sức mình rồi - Tôi nói - Đó là tất cả những gì mọi người có thể đòi hỏi ở chị.
Tôi hy vọng lời mình nói ra mang được vẻ chân thành hơn cảm giác của tôi lúc này. Trước khi Cindy kịp đáp lời thì Cassie đã mở mắt, ngáp ngủ, dụi mí mắt và lảo đảo ngồi dậy. Hai tay nó lúc này đã được rút ra khỏi chăn. Cánh tay giấu trong chăn sưng húp và có nhiều vết thâm tím do kim tiêm gây ra và cả những vết ố vàng của thuốc Betadine.
Cindy chạy ngay tới chỗ con bé và ẵm nó lên:
- Ôi con yêu, ngoan nào.
Giọng chị ta khác hẳn. Chị hôn vào má con bé.
Cassie ngước nhìn mẹ.
Cassie xoa đầu con bé và ôm nó sát vào người mình. Nó lại ngáp ngủ lần nữa và nhìn quanh cho tới khi đôi mắt nhằm vào những con thỏ nhồi bông LuvBunny trên bàn để đèn.
Nó chỉ tay về phía những con thú nhồi bông và nói:
- Kia kia... kia...
Cindy với tay ra và cầm lấy một con màu tím.
- Của con đây. Đây là chú thỏ Bunny, chú đang nói "Chào cô Cassie Jones". Con có được giấc mơ đẹp không?
Chị ta nói rất nhẹ nhàng trong điệu bộ ngốc nghếch của người chơi với trẻ con.
Cassie cướp lấy con búp bê. Nó ôm sát vào ngực rồi nhắm mắt lại, đu đưa, sau đó lại mở mắt ra trong tư thế ôm ấp ấy. Đôi mắt nó cũng to và đen, giống hệt mắt mẹ.
Đôi mắt con bé lại nhìn quanh phòng một lần nữa, hướng vào tôi và dừng lại. Mắt tôi và mắt nó chạm nhau.
Tôi cười. Con bé khóc thét lên.



+++++++++++++++++++++


Chương 5

Cindy ôm lấy con bé và dỗ dành:
- Ngoan nào, ông ấy là bạn của chúng ta!
Cassie ném con thú nhồi bông Luvbunny xuống sàn rồi khóc dỗi.
Tôi nhặt con thú lên và chìa ra cho nó. Con bé thu mình lại và bám chặt lấy mẹ. Tôi đưa con búp bê cho Cindy, với tay lấy một con thỏ nhồi màu vàng trên giá rồi ngồi trở lại.
Tôi bắt đầu đùa nghịch với con thú, dùng tay điều khiển chân tay nó, nói những câu vô nghĩa với nó. Cassie tiếp tục khóc còn Cindy vẫn không ngớt nựng nịu con, nhẹ nhàng, êm ái. Tôi tiếp tục đùa với con thỏ bông. Sau khoảng một phút, tiếng khóc của Cassie đã giảm đi một chút.
Cindy nói:
- Ngoan nào con yêu, con xem, bác sĩ Delaware cũng thích thỏ bông kìa.
Cassie nuốt mạnh, thở hổn hển và nấc thành tiếng khóc.
- Không, ông ấy không làm con đau đâu, con yêu. Ông ấy là bạn của chúng ta.
Tôi nhìn chằm chằm vào đám răng vẩu của con thú và nắm lấy một chân nó. Một hình trái tim màu trắng ở trên bụng nó mang dòng chữ vàng: SillyBunny và nhãn hiệu đăng ký. Một cái mác đính cạnh đó có ghi: Made in Taiwan.
Cassie dừng khóc để lấy hơi.
Cindy dỗ nó:
- Ngoan nào con, ổn rồi, ổn rồi.
Tiếng khóc, tiếng hít thở phát ra rất mạnh từ chiếc giường.
- Hay mẹ kể chuyện nhé, được rồi. Ngày xửa ngày xưa, có một nàng công chúa tên là Cassandra. Nàng sống trong một lâu đài lớn và có những giấc mơ tuyệt đẹp. Nàng thường mơ về kẹo và những đám mây mang đầy kem.
Cassie nhìn lên không chớp mắt. Bàn tay bầm tím của nó chạm vào đôi môi.
Tôi đặt con thỏ nhồi bông màu vàng xuống sàn nhà, mở cái ca táp lôi ra một cuốn sổ và cái bút chì. Cindy dừng kể một lát rồi lại tiếp tục câu chuyện. Cassie lúc này đã nín hẳn, đang chìm trong một thế giới khác.
Tôi bắt đầu vẽ một con thỏ. Tôi hy vọng sẽ thành công.


Một vài phút sau đó tôi đã vẽ xong. Nhìn vào đó những hoạ sĩ của Disney tất nhiên là không lo mất việc, nhưng tôi nghĩ tác phẩm của mình cần phải đẹp và sao cho thật giống thỏ. Tôi thêm vào đó cái mũ và chiếc nơ bướm. Tôi lại thò tay vào ca táp và lôi ra hộp bút đánh dấu để ở đó từ rất lâu cùng các công cụ hành nghề khác.
Tôi bắt đầu tô màu. Bút đánh dấu phát ra tiếng kêu ken két. Tiếng sột soạt phát ra từ phía giường. Cindy đã thôi kể chuyện.
- Kìa con yêu, bác sĩ Delaware đang vẽ kìa. Ông đang vẽ gì thế, bác sĩ Delaware?
Trước khi tôi kịp trả lời thì từ bác sĩ mà Cindy nói ra đã khiến con bé khóc như mưa như gió.
Lại một lần nữa, sự nựng nịu dỗ dành của người mẹ mới giúp được con bé thôi khóc.
Tôi giơ tác phẩm của mình lên.
- Kìa con, nhìn xem, là một anh chàng thỏ đấy. Chàng ta đang đội mũ kìa và còn đeo cả nơ nữa - có buồn cười không?
Căn phòng yên lặng.
- Đúng rồi, mẹ nghĩ là anh chàng thỏ ngốc nghếch đấy. Con xem có phải là một trong những chú thỏ LuvBunny không, Cass?
Lại im lặng.
- Có phải bác sĩ Delaware đã vẽ anh chàng thỏ không?
Con bé lại khóc.
- Thôi nào, Cass, đừng sợ con yêu. Bác sĩ Delaware sẽ không làm con đau đâu. Ông ấy là bác sĩ không dùng kim tiêm mà.
Lần này tiếng khóc be be khiến Cindy phải mất một lúc mới dỗ nó nín được. Cuối cùng chị ta cũng có thể tiếp tục câu chuyện dở dang của mình: Công chúa Cassandra cưỡi con ngựa trắng...
Tôi vẽ thêm một người bạn của chú thỏ đội mũ. Vẫn là khuôn mặt của loài thỏ nhưng có tai ngắn, mặc áo hoa. Tôi thêm vào đó một quả sồi to có hình thù bất định, xé trang đó ra và đặt lên giường ngay cạnh chân Cassie.
Con bé vụt ngoảnh mặt lại khi tôi trở về chỗ ngồi.
Cindy nói:
- Xem này, ông ấy đã vẽ một... chị chó thảo nguyên. Cassie, con xem cái áo của chị chó này. Có đẹp không. Khắp người chị chó đều có chấm hoa to chưa kìa, Cass. Thật buồn cười chưa kìa - một chị chó thảo nguyên mặc áo.


Tiếng cười ấm áp và đầy nữ tính. Khi chị cười, con bé cũng cười khúc khích theo.
- Thật ngộ nghĩnh quá. Mẹ không biết có phải chị ta sắp đi dự tiệc với bộ áo đó không... hay chị chó định đi chợ hay đi đâu nhỉ? Con xem bộ áo ấy có buồn cười không kìa, một chị chó sắp đi chợ à? Mà chị ta còn đi chợ với anh bạn thỏ nữa kìa, anh chàng thỏ đội cái mũ buồn cười chưa kìa... Có lẽ bọn họ định tới chỗ đồ chơi của mẹ con mình đấy. Cả hai anh chị thật buồn cười quá. Này con, bác sĩ Delaware vẽ những bức tranh thật ngộ nghĩnh - đố con biết ông ấy sẽ làm gì nữa nào?
Tôi cười và nhấc bút chì lên. Tôi vẽ cái gì đó thật dễ nhìn: một con hà mã... đúng hơn là chiếc bồn tắm có chân...
- Tên của anh chàng thỏ ông vẽ là gì vậy, bác sĩ Delaware?
- Anh chàng thỏ đó tên là Benny.
- Thỏ Benny - tên ngộ quá.
Tôi cười, cố che giấu băn khoăn nghệ thuật của mình. Chiếc bồn tắm có chân có vẻ quá hung tợn... vấn đề là điệu cười của nó... quá dữ dằn - giống con tê giác mất sừng hơn... liệu Freud sẽ bình luận thế nào về cái đó nhỉ?
Tôi bắt đầu sửa lại mồm chú hà mã.
- Benny, chàng thỏ đội mũ - con đã bao giờ nghe thấy chưa, Cass?
Con bé cười khanh khách, điệu cười sung sướng của một nhóc con.
- Thế còn chị chó thảo nguyên thì sao, bác sĩ Delaware? Tên chị ta là gì?
- Là Priscilla.
Tôi tiếp tục hối hả vẽ. Con hà mã cuối cùng đã có vẻ giống hình dáng hà mã, nhưng vẫn có cái gì đó không ổn... điệu cười mua chuộc của nó - là điệu cười của con chó đang mừng chủ... có lẽ vẽ con chó sẽ dễ dàng hơn nhiều....
- A, chị chó Priscilla! Con có tin không kìa!
- Pilla!
- Đúng rồi, chị Priscilla.
- Pilla!
- Rất giỏi, Cass! Tuyệt lắm! Chị Priscilla ơi. Con có thể gọi lại không?
Con bé không nói gì nữa.
- Chị Priscilla - Pri-sci-la. Con đã gọi được rồi mà. Nào, con nhìn miệng mẹ nhé, Cass.
Yên lặng.


- Thôi được rồi, con không phải gọi chị ta nếu con không muốn. Hãy trở lại với nàng công chúa Cassandra Silverparkle, nàng đang cưỡi bông tuyết vao đất nước ánh sáng...
Cuối cùng, tôi cũng đã hoàn thành tác phẩm con hà mã. Dù có những vết bẩn, vết tẩy xoá nhưng ít nhất thì nó cũng không còn dáng vẻ hung hãn nữa. Tôi đặt nó lên trên tấm phủ giường.
- Ôi nhìn này, Cass. Chúng ta có biết đây là anh chàng nào không nhỉ? Một anh chàng hà mã - anh ta đang cầm...
- Một con yoyo(1) - Tôi đáp.
- Một con yoyo kìa. Một chàng hà mã cầm một con yoyo - thật ngộ quá. Con có biết mẹ đang nghĩ gì không Cass? Mẹ nghĩ bác sĩ Delaware có thể rất ngộ nghĩnh nếu ông ấy muốn đấy cho dù ông ấy là bác sĩ. Con nghĩ sao?
Tôi quay mặt lại cho con bé nhìn. Mắt tôi và mắt nó lai chạm nhau. Đôi mắt nó đảo qua đảo lại. Cái miệng màu hồng bắt đầu trề ra, môi dưới cong lên. Thật khó mà tưởng tượng có ai đó lại lỡ làm tổn thương con bé đáng yêu thế này.
Tôi nói:
- Cháu có muốn bác vẽ nữa không?
Con bé nhìn mẹ và túm lấy ống tay áo chị ta.
- Có - Cindy nói - Nào, xem bác sĩ Delaware vẽ được thêm những con gì ngộ nghĩnh nào.
Cassie gật đầu rất nhẹ. Nó vùi đầu vào áo Cindy.
Tôi lại tiếp tục vẽ.

Một con chó ghẻ, một con vịt có đôi mắt xếch và con ngựa cà nhắc đã làm con bé chịu để tôi có mặt ở trong phòng.
Tôi dần kéo cái ghế lại gần giường nó, nói chuyện với Cindy về những trò chơi, đồ chơi và những thức ăn được ưa thích. Khi Cassie dường như chấp nhận tôi, tôi liền đẩy đẩy cái ghế sát sạt vào tấm nệm và dạy Cindy trò vẽ hình - hai người chúng tôi thay phiên nhau vẽ thêm những đường nét vào các hình vẽ. Đó là một kỹ thuật của nhà phân tích tâm lý trẻ thơ nhằm xây dựng mối quan hệ và đi vào tiềm thức của trẻ mà không làm nó sợ hãi.
Tôi sử dụng Cindy như người trung gian trong khi vẫn thầm theo dõi, nghiên cứu tâm lý chị ta.
Tôi vẽ một nét gấp và đưa cho Cindy. Chị ta và Cassie châu đầu vào nhau để vẽ; họ giống như một bức tranh áp phích cho tờ National Bonding Week (2). Từ một nét gấp ấy, Cindy phát triển thành một căn nhà. Chị ta đưa lại cho tôi tờ giấy và nói:
- Không tốt lắm, nhưng...


Môi Cassie hơi cong lên một chút, rồi lại xịu xuống. Đôi mắt con bé nhắm lại và áp chặt mặt vào áo Cindy. Nó túm chặt một bên vú mẹ, bóp mạnh. Cindy nhẹ nhàng gỡ tay con bé ra và đặt vào lòng mình. Tôi thấy những vết đâm trên da thịt Cassie. Những dấu chấm nhỏ đen, giống như vết rắn cắn.
Cindy thầm thì nựng nịu con bé. Nó sục sạo, xoay tư thế và túm lấy một nắm áo của mẹ.
Nó lại ngủ. Cindy hôn lên đỉnh đầu con bé.
Tôi đã được dạy để biết cách hàn gắn những vết thương, biết cách tin vào mối quan hệ cởi mở, thành thật giữa bác sĩ và bệnh nhân. Trong căn phòng này, tôi có cảm giác mình là một kẻ bịp bợm.
Rồi tôi nghĩ về những cơn sốt cao và đi ngoài ra máu, những cơn co giật mạnh tới mức làm cho chiếc giường phát ra tiếng kêu ầm ĩ. Tôi nhớ đứa bé trai đã chết trong cũi của nó khiến sự thiếu tự tin của tôi đổ vỡ và biến mất.

Tới 10 giờ 45 thì tôi đã ở trong phòng đó được hơn nửa tiếng, phần lớn là để quan sát con bé Cassie nằm trong vòng tay mẹ. Con bé có vẻ hoàn toàn thoải mái với tôi, thậm chí còn mỉm cười một đôi lần. Đã đến lúc kết thúc và tuyên bố thành công.
Tôi đứng dậy. Con bé Cassie bắt đầu quấy.
Cindy khịt khịt ngửi rồi nhăn mũi lại và kêu lên:
- Ôi trời!
Chị ta nhẹ nhàng xoay cho Cassie ngửa ra và thay cái tã nhỏ của con bé.
Chị xịt phấn chống hăm, vỗ nhẹ và cuốn tã lại cho nó. Cassie tiếp tục quấy. Nó chỉ tay xuống sàn nhà và kêu rống lên:
- A, a, a...
- Con muốn ra ngoài phải không?
- A - Con bé gật đầu dứt khoát.
Con bé quỳ gối và cố đứng lên trên giường, nhưng lảo đảo vì cái nệm mềm, Cindy luồn tay vào nách con bé nhấc lên và đặt xuống sàn nhà.
- Con muốn đi phải không? Hãy đi dép vào đã.
Hai mẹ con họ đi tới cái tủ nhỏ. Cái tã của Cassie quá dài nên con bé kéo lê dưới sàn nhà. Khi đứng, con bé trông còn nhỏ nhắn hơn khi nằm trên giường, nhưng cũng cứng cáp hơn. Nó đi rất vững chãi và giữ được thăng bằng rất tốt.
Tôi nhặt cái ca táp lên.
Cindy quỳ xuống ***g chiếc thép hình con thỏ đầy lông vào chân Cassie. Những con thỏ này có đôi mắt bằng nhựa rất trong, lòng đen của mắt di động được và mỗi lần Cassie bước đi lại phát ra tiếng kêu chít chít.
Con bé cố nhảy lên, nhưng không nhấc được chân lên khỏi mặt sàn nhiều lắm.
Cindy khen:


- Con gái mẹ nhảy giỏi quá.
Cánh cửa chợt mở, một người đàn ông bước vào.
Ông ta cỡ tuổi gần bốn mươi, cao chừng 1 mét 8 và rất gầy.
Tóc ông ta màu đen, lượn sóng và dày, được chải thẳng ra đằng sau và dài tới tận cổ áo. Ông ta có khuôn mặt đầy đặn rất không hợp với thân hình lêu nghêu. Khuôn mặt ấy đầy đặn và tròn hơn bởi bộ râu màu đen, rậm được cắt tỉa có điểm mấy sợi bạc. Vẻ mặt ông ta dễ chịu và ôn hoà. Bên *** tai trái ông ta có đeo một cái khuyên bằng vàng. Bộ quần áo ông ta mặc hơi rộng nhưng được may đo rất đẹp: áo sơ mi sọc trắng - xanh cài cúc, bên ngoài là chiếc áo khoác thể thao vải tuýt; chiếc quần đen rộng thẳng li; đôi giày chạy thể thao đen có vẻ mới tinh.
Một tay ông ta cầm cốc cà phê.
- Bố kìa - Cindy nói.
Cassie chìa cánh tay ra.
Người đàn ông lêu nghêu liền đặt cốc cà phê xuống rồi nói:
- Chào các quý bà.
Rồi ông ta hôn vào má Cassie và bế nó lên.
Con bé kêu ré lên vui sướng khi được bố bế bổng lên cao. Ông ta đưa con bé lại gần bằng động tác hạ rất mạnh.
- Con gái bố có khoẻ không? - Ông ta vừa nói vừa áp con bé vào bộ râu của mình. Mũi ông ta biến mất dưới mái tóc của con bé. Con bé cười khúc khích.
- Quý bà mặc tã của bố có khoẻ không hả?
Cassie đưa cả hai tay lên tóc bố nó và kéo mạnh.
- Ái chà.
Con bé cười và lại giật.
- Úi chà ơi.
Con bé lại cười lên ha hả.
- Ái ôi.
Hai bố con họ chơi với nhau một lúc lâu rồi ông ta nhãng ra và nói:
- Ôi, con bố khoẻ quá.
Cindy giới thiệu:
- Đây là bác sĩ Delaware, anh yêu. Bác sĩ tâm lý. Thưa bác sĩ, đây là bố của Cassie.
Người dàn ông quay lại phía tôi, một tay ôm Cassie tay kia chìa ra.
- Tôi là Chip Jones. Rất vui được gặp ông.
Cái bắt tay của ông ta rất mạnh. Cassie vẫn đang kéo tóc ông ta làm cho nó rối bù lên. Ông ta dường như đã quen bị nó hành hạ như thế rồi đâm trơ.
- Chuyên ngành hai của tôi cũng về tâm lý - Ông ta vừa nói vừa cười - Nhưng nay tôi quên gần hết rồi.
Quay sang Cindy, ông ta nói:
- Tình hình ra sao rồi?
- Vẫn thế thôi.
Ông ta cau mày đoạn nhìn đồng hồ ở cổ tay. Lại một chiếc đồng hồ của Swatch.
Cindy hỏi:


- Anh đang có việc à?
- Thật không may em ạ. Anh tới là để được trông thấy mẹ con em trong chốc lát thôi.
Ông ta cầm lấy cốc cà phê chìa ra cho vợ.
- Không, cảm ơn anh.
- Em ổn chứ?
- Vâng, em ổn.
- Bụng em sao rồi?
Cindy sờ tay vào bụng, đáp:
- Chỉ hơi cảm thấy buồn nôn thôi. Anh có thể nán lại được bao lâu.
- Chỉ thoáng tí thôi - Chip đáp - Anh có một lớp vào lúc 12 giờ, rồi sau đó là họp hành - có lẽ từ đó lái xe đến đây rồi lại đi ngay là hơi điên rồ, nhưng anh nhớ mẹ con em quá.
Cindy cười.
Chip hôn chị ta và Cassie.
- Cindy nói:
- Bố không thể ở đây lâu với mẹ con mình rồi, Cass. Chán thật nhỉ?
- Bố ơi..
Chip véo nhẹ vào cằm Cassie. Con bé đưa tay xoa râu bố nó.
- Khoảng muồn muộn anh sẽ cố tạt qua đây. Hãy thức chừng nào em cần đến anh nhé.
- Thật tuyệt - Cindy đáp.
- Bố ơi bố...
- Bố - Chip nói với Cassie - Bố yêu con. Con ngoan của bố.
Quay sang Cindy, Chip nói:
- Đến thăm mẹ con em hai phút thật là một ý kiến tồi. Bây giờ, anh sẽ lại nhớ mẹ con em lắm đây.
- Mẹ con em cũng sẽ nhớ anh, bố nó ạ.
- Anh sẽ ở cạnh đây thôi - Ông ta nói - Tức là ở ngay bên sườn đồi, ít nhất là như vậy.
- Tại trường đại học ư?
- Vâng. Trực tại thư viện ấy mà.
Quay sang tôi, ông ta nói:
- Tôi dạy học tại phân khu mới của Đại học Tây Valley City, không có nhiều nguồn thông tin tham khảo. Vì vậy, khi có những dự án nghiên cứu nghiêm túc, tôi thường tới trường Đại học để tìm kiếm dữ liệu.
- Đó là trường tôi từng học đấy - Tôi nói.
- Thế ư? Tôi học ở tận miền Đông cơ - Ông ta cù bụng Cassie - Em đã ngủ tí nào chưa, Cindy?
- Nhiều rồi.
- Thật không?
- Thật chứ.
- Em có muốn uống trà thuốc không? Anh nghĩ là anh có mấy gói trà thanh nhiệt ở dưới xe đấy.
- Không, anh yêu. Bác sĩ Delaware có một số kỹ thuật giúp Cassie chống lại cảm giác đau đớn anh ạ.
Chip nhìn tôi trong khi vẫn xoa tay con bé.
- Thế thì hay quá. Đây đúng là một khó khăn quá mức tưởng tượng.
Đôi mắt ông ta xanh như đá phiến, mi trên hơi cụp xuống và rất sâu.
- Tôi biết - Tôi đáp.


Chip và Cindy nhìn nhau, rồi nhìn tôi.
- À, mà tôi sẽ đi ngay đây. Sáng mai tôi sẽ tạt qua để gặp lại gia đình ta.
Tôi cúi xuống và thầm chào tạm biệt Cassie. Con bé chớp mắt và quay đi.
Chip cười:
- Bác sĩ tán khéo nhỉ. Con bé mới bé tẹo thế này, phải vậy không?
Cindy nói:
- Thế thì khi nào chúng ta có thể bàn về các kỹ thuật của ông?
- Sớm thôi - Tôi đáp - Trước hết, tôi cần phải làm quen với Cassie đã. Tôi nghĩ, hôm nay chúng ta đã làm được rất khá.
- Ôi, đúng thế. Chúng ta đã làm rất tốt. Phải vậy không, bé con của mẹ?
- Chị thấy 10 giờ sáng có tiện cho chị không?
- Vâng - Cindy đáp - Chúng tôi sẽ không đi đâu cả.
Chip nhìn vợ và nói:
- Bác sĩ Eves vẫn chưa nói gì về chuyện cho ra viện à?
- Chưa. Bà ấy muốn theo dõi thêm.
Ông chồng thở dài:
- Thôi được rồi.
Tôi bước ra cửa.
Chip nói theo:
- Tôi cũng phải đi ngay, thưa bác sĩ. Nếu ông có thể chờ thêm một giây nữa, tôi sẽ cùng ra với ông.
- Được thôi.
Ông ta cầm tay vợ.
Tôi đóng cửa lại, rảo bước tới phòng y tá và lại ngồi phía sau cái bàn làm việc. Vicki Bottomley đang từ cửa hàng đồ chơi trở lại, ngồi xuống chiếc ghế của thư ký và đọc cuốn RN (3). Không có ai khác xung quanh. Trên mặt bàn là một hộp nhỏ được bọc bằng giấy gói quà của cửa hàng đồ chơi tại bệnh viện Nhi đồng miền Tây cạnh cuộn ống thông đường tiểu và chồng mẫu bảo hiểm.
Bà ta không ngửng mặt nhìn lên kh tôi nhấc bệnh án của Cassie ra khỏi chồng và lật qua các trang. Tôi đảo mắt nhanh qua quá trình điều trị của nó và tìm thấy bản ghi lại quá trình điều trị tâm lý của Stephanie. Với nghi hoặc về sự chênh lệch tuổi tác giữa Cindy và Chip, tôi tìm đến dữ liệu về lý lịch của ông ta.
Chales L.Jones Đệ tam. Tuổi 38. Trình độ học vấn: Thạc sỹ. Nghề nghiệp: giáo sư đại học.
Cảm thấy có ai đó đang nhìn mình, tôi hạ thấp cuốn bệnh án xuống và thấy Vicki quay nhanh đầu trở lại cuốn tạp chí.
Tôi lên tiếng hỏi trước:
- Tình hình dưới cửa hàng đồ chơi thế nào, thưa bà Vicki?
Bà ta hạ cuốn tạp chí xuống và đáp:
- Cụ thể anh muốn gì ở tôi?
- Bất kể thứ gì có thể giúp tôi giải quyết được sự sợ hãi của con bé Cassie.
Đôi mắt của bà y tá nheo lại:
- Bác sĩ Eves đã yêu cầu tôi làm thế rồi. Anh cứ việc hỏi đi.
- Tôi chỉ muốn biết trong thời gian qua đã có những chuyện gì xảy ra với bà?
- Không có chuyện gì xảy ra cả - Bà ta đáp - Tôi không biết gì hết. Tôi chỉ là một y tá.
- Y tá thường biết nhiều hơn bất kỳ ai khác đấy.
- Anh hãy nói điều đó với uỷ ban định tiền lương ấy. - Bà ta giơ tờ tạp chí lên cao, che khuất bộ mặt của mình.
Tôi đang định trả lời thì nghe thấy tiếng gọi. Chip Jones đang sải bước về phía tôi.
- Cảm ơn ông vì đã chờ đợi.
Tiếng ông ta làm Vicki ngừng đọc. Bà ta chỉnh sửa lại cái mũ và nói:
- Chào tiến sỹ Jones.
Một nụ cười ngọt ngào nở trên mặt bà ta, chẳng khác gì mật ong được phết lên bánh mỳ ôi.
Chip chống tay lên mặt bàn, miệng cười toe toét và lác đầu:
- Lại gặp bà ở đây, bà Vicki, bà đang thăng học vị cho tôi đấy.
Quay sang phía tôi, ông ta nói:
- Tôi mới sắp là tiến sỹ thôi, nghĩa là đã hoàn thành tất cả rồi, ngoại trừ luận án. Bà Vicki - hay bà Bottomley hào phóng đây đang muốn thăng cấp cho tôi trước khi tôi được phong chính thức đấy.
Vicki lại nở nụ cười nịnh hót khác:
- Có được phong hay không thì có khác gì chứ?
- Ôi - Chip đáp - với những người như bác sĩ Delaware đây, người đã nhận được học vị này thực sự, thì rất khác đấy.


- Tôi không dám.
Ông ta nghe thấy sự chao chát trong giọng Vicki nên ném cho bà ta cái nhìn khó chịu. Bà ta bối rối quá đành nhìn ra chỗ khác.
Ông ta nhìn thấy hộp quà đồ chơi nên nói:
- Bà Vicki, bà lại chiều con bé rồi phải không?
- Đó chỉ là món đồ chơi nhỏ thôi mà.
- Bà thật là tốt bụng, bà Vicki ạ, nhưng không nhất thiết phải thế.
- Tôi muốn thế mà, anh Jones. Con bé xinh như một thiên thần ấy.
- Đúng thế, thưa bà Vicki - Ông ta cười - Bà lại mua thỏ nhồi bông cho nó à?
- Ôi, con bé thích những thứ này, tiến sỹ Jones ạ.
- Bà cứ gọi tôi là anh Jones được rồi. Nếu bà thực sự muốn gọi bằng chức danh thì xin gọi tôi là ông giáo cũng được. Gọi như thế dễ nghe hơn, phải vậy không thưa bác sĩ Delaware?
- Vâng, anh dạy phải lắm.
Ông ta nói:
- Nãy giờ tôi toàn nói chuyện tầm phào thôi - nơi này làm tôi quẫn trí quá. Xin cảm ơn bà một lần nữa, bà Vicki. Bà thật tốt bụng.
Bottomley đỏ bừng mặt.
Chip quay sang tôi:
- Sẵn sàng đi chưa, thưa bác sĩ?

Chúng tôi rảo bước qua mấy cánh cửa gỗ tếch vào dòng người hối hả của tầng sáu phía Đông. Một đứa bé được đẩy trên xe đang gào khóc ở đâu đó, một bé trai đang được truyền nước và đầu quấn đầy băng. Chip nhìn, nhăn trán nhưng không nói gì.
Khi chúng tôi tới gần thang máy, ông ta lắc đầu và nói:
- Vicki thật là tốt bụng. Bà ấy là y tá không biết quản ngại khó khăn. Nhưng hình như bà ấy có vẻ gì đó xấc xược với ông phải không?
- Tôi không phải là kiểu người mà bà ấy ưa thích.
- Tại sao?
- Tôi chịu thôi.
- Trước kia ông có cãi lộn với bà ấy bao giờ chưa?
- Chưa. Trước kia tôi cũng chưa từng gặp bà ấy.
Ông ta lắc đầu:
- Ôi, thật xin lỗi ông, nhưng bà ấy dường như quan tâm săn sóc hết lòng với con Cassie nhà tôi. Cindy cũng rất mến bà ấy. Tôi nghĩ rằng bà ấy làm Cindy nhớ tới bà dì của cô ấy - người đã nuôi cô ấy khôn lớn. Bà ấy cũng là y tá, một người rất chịu khó.
Sau khi chúng tôi vượt qua một nhóm sinh viên trường y có vẻ mặt như mê ngủ, ông ta nói:
- Có lẽ chính yếu tố địa bàn đã khiến bà Vicki có phản ứng với ông. Nó giống như là cuộc chiến tranh giành địa bàn ấy, phải vậy không?
- Có thể.
- Tôi để ý thấy ở đây thường xảy ra chuyện đó lắm. Tôi tạm gọi đó là sự sở hữu bệnh nhân. Cứ như thể bệnh nhân trở thành những món hàng quý hoá vậy.
- Bản thân ông có trải qua chuyện này bao giờ chưa?


- Ô, có chứ. Hoàn cảnh của chúng tôi còn làm cho căng thẳng tăng lên. Mọi người thường nghĩ rằng chúng tôi là những người đáng được nịnh nọt bởi vì chúng tôi có những con đường dẫn thẳng tới cơ cấu quyền lực. Tôi nghĩ ông biết cha tôi là ai rồi chứ?
Tôi gật đầu.
Ông ta nói tiếp:
- Chuyện bị đối xử khác biệt làm tôi cảm thấy không ổn. Tôi lo rằng chuyện đó sẽ khiến Cassie nhận được sự chăm sóc không tốt.
- Nghĩa là sao?
- Tôi không biết, chẳng có thứ gì cụ thể cả. - tôi chỉ không muốn trở thành một cái gì đó đặc biệt. Tôi không muốn ai đó bỏ qua điều quan trọng bởi vì họ đã chần chừ hay phá vỡ tính thường xuyên vì sợ sẽ gây tổn thương tới gia đình chúng tôi. Không phải là bác sĩ Eves không tốt đâu - tôi rất kính trọng bà ấy. Vấn đề là ở toàn bộ hệ thống cơ - đó là cảm giác của tôi khi tới đây.
Ông ta đi chậm lại.
- Có lẽ tôi đã đánh giá quá chủ quan. Nhưng đó là sự thất vọng bởi lẽ con Cassie đã mắc hết bệnh này đến tật khác mà chẳng có ai biết con bé bị làm sao. Chúng tôi cũng... ý tôi muốn nói rằng bệnh viện này là một cơ cấu hình thức hoá cao và khi quy tắc thay đổi tại một cơ cấu nào đó thì sẽ dễ xảy ra sự đổ vỡ cả cơ cấu. Đó là lĩnh vực quan tâm của tôi: Các tổ chức hình thức. Theo tôi, đây chính là một dạng tổ chức như thế đấy.
Chúng tôi tới cầu thang máy. Ông ta nhấn nút và nói:
- Tôi hy vọng ông có thể giúp được Cassie chịu đựng những mũi tiêm chọc. Hiện con bé đang phải trải qua cơn ác mộng thực sự. Cả Cindy cũng vậy. Cô ấy là người mẹ tuyệt vời nhưng với chuyện này thì sự thiếu tự tin là điều tất yếu.
- Vậy vợ ông đang tự trách mình à? - Tôi hỏi.
- Có, đôi khi. Mặc dù chuyện này là hoàn toàn phi lý. Tôi đã cố khuyên giải cô ấy, nhưng...
Ông ta lắc đầu và chắp hai tay lại với nhau. Các ngón tay trắng trẻo. Đoạn ông ta đưa tay lên xoay xoay cái khuyên tai.
- Những căng thẳng với cô ấy thật quá mức chịu đựng.
- Chắc ông cũng thấy rất căng thẳng phải không? - Tôi hỏi.
- Tất nhiên chuyện này đâu có vui vẻ được. Nhưng tồi tệ nhất vẫn là về phía Cindy. Nói thật thì chúng tôi có cuộc hôn nhân căn bản truyền thống, tôi đi làm, cô ấy ở nhà đảm nhiệm tất cả. Đó là sự lựa chọn được cả hai bên đồng ý - chính Cindy cũng muốn như thế. Tôi cũng có tham gia việc nhà đôi chút - có lẽ là hơi ít - nhưng việc nuôi con thực sự là lĩnh vực của Cindy. Chỉ có trời mới hiểu cô ấy giỏi hơn tôi rất nhiều trong công việc ấy. Vì vậy, khi có vấn đề gì đó không ổn liên quan tới con cái gì cô ấy gánh hết trách nhiệm lên vai.
Ông ta đưa tay xoa cằm và lắc đầu:
- Phải chăng ông thấy những gì tôi nói giống lời phát biểu mô phạm ấn tượng tự bào chữa cho mình? Thật ra, tôi cũng rất đau đớn. Phải chứng kiến người mình yêu thương... Tôi nghĩ chắc ông đã biết về Chad - thằng con trai đầu lòng của chúng tôi?

thay đổi nội dung bởi: APOLONG, 02-04-2009 lúc 12:07 AM. Lý do: Gộp 2 bài gần nhau
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #5  
Cũ 01-04-2009, 11:48 PM
APOLONG's Avatar
APOLONG APOLONG is offline
Điều Hành Viên
 
Tham gia: 14/11/2008
Họ và tên: Apolong
Bài viết: 677
Xã: Tình khác
Gửi tin nhắn qua Yahoo chát tới APOLONG
Default Trả lời : [Truyện Kinh Dị] - Vũ Điệu Quỷ - [+15]

Tôi gật đầu.
- Khi chuyện đó xảy ra, chúng tôi đã đau đớn hết mực, bác sĩ Delaware ạ. Thật chẳng còn gì để... - Ông ta nhắm mắt lại, lắc đầu thật mạnh như thể đang trục xuất ra khỏi đầu con đỉa vô hình nào đó - Thực sự, ngay cả đối với kẻ thù cay cú nhất thì tôi cũng không mong chuyện đó xảy ra với họ.
Ông ta lại nhấn nút cầu thang và liếc nhìn chiếc đồng hồ.
- Có vẻ như chúng ta đã làm mọi người xung quanh khó chịu, thưa bác sĩ. Nhưng dù sao, chúng tôi cũng đã vượt qua - cả Cindy và tôi. Hai chúng tôi đã gắn bó với nhau và cùng chia sẻ niềm vui khi có Cassie thì chuyện khốn này lại xảy ra. Thật không thể tin được.
Thang máy tới. Hai nhân viên tình nguyện trẻ và một bác sĩ bước ra. Chúng tôi cùng vào. Chip nhấn nút xuống tầng một và đứng tựa lưng vào thành thang máy.
- Ông không biết được cuộc sống sắp tới sẽ tồi tệ với ông thế nào đâu - Ông ta nói tiếp - Tôi từng là người rất cứng đầu. Có thể nói là quá cứng đầu ấy chứ - một con người cá nhân chủ nghĩa đến kinh tởm. Có lẽ bởi vì thời trẻ tôi đã phải nuốt trôi nhiều sự giáo huấn. Nhưng rồi tôi nhận ra rằng tôi là một người khá bảo thủ, sống theo các giá trị căn bản: tuân thủ các quy tắc, luật lệ chắc chắn cuối cùng mọi thứ sẽ ổn. Thật là sự ngây thơ vô vọng. Nhưng khi ta rơi vào một mô thức tư duy nhất định thì luôn cảm thấy mô thức đó là hoàn hảo, vì thế ta sẽ tiếp tục làm theo nó. Tôi nghĩ nói như thế là đủ để ông hiểu định nghĩa đức tin của tôi như thế nào. Nhưng rồi tôi nhanh chóng mất hết đức tin.
Chiếc thang máy dừng lại ở tầng bốn. Một phụ nữ người Tây Ban Nha khoảng năm mươi tuổi bước ra cùng đứa bé trai chừng mười tuổi. Thằng bé thấp, đậm và đeo kính. Vẻ mặt đần độn của nó thể hiện không lẫn vào đâu người bị bệnh đao. Chip nở nụ cười với hai người bọn họ. Thằng bé con dường như không nhận ra ông ta còn người phụ nữ có vẻ rất mệt nhọc. Không ai nói chuyện với ai. Hai người bọn họ xuống tầng ba.
Khi cánh cửa đóng lại, Chip không ngớt nhìn chằm chằm vào nó. Khi thang máy bắt đầu đi xuống, ông ta nói:
- Ông cứ nhìn người phụ nữ đó thì biết. Bà ta không hề mong đợi điều đó, tức là có con ở tuổi ấy để rồi phải nuôi báo cô nó suốt đời. Những chuyện như thế sẽ làm đảo lộn hoàn toàn thế giới quan của ông. Đó chính là điều đã xảy ra với tôi - chuyện nuôi con ấy. Trong tôi chẳng còn chút hy vọng nào về một kết thúc tốt đẹp.
Ông ta quay sang tôi. Đôi mắt màu xanh tỏ vẻ cầu khẩn:
- Tôi thực sự hy vọng ông có thể giúp được Cassandra. Trong lúc con bé tiếp tục phải điều trị ở đây, hãy giúp nó bớt đi một phần đau đớn.
Thang máy xuống tới tầng một. Khi cánh cửa mình, ông ta lập tức ra ngoài và biến mất.
Khi tôi trở lại phòng khám đa khoa nhi, Stephanie đã có mặt ở một trong những phòng khám. Tôi đợi bên ngoài và vài phút sau thì cô ra, đi theo là một phụ nữ da đen to lớn và bé gái khoảng năm tuổi. Đứa bé mặc chiếc áo hoa nước da màu đen như than, tóc tết thành nhiều bím nhỏ và có khuôn mặt đẹp đặc châu Phi. Một tay con bé nắm lấy tay Stephanie, tay còn lại cầm cây kẹo mút. Dòng nước mắt chảy dọc theo má nó giống như một vệt sơn trên gỗ mun. Một miếng cao dán ở khuỷu tay nó.


Stephanie nói:
- Cháu làm giỏi lắm, Tonya.
Nhìn thấy tôi, cô nói:
- Vào văn phòng của tôi đi.
Sau đó cô lại để ý tới con bé ngay.
Tôi tới phòng khám của cô. Cuốn sách của Byron đã nằm trở lại giá, cái gáy sách mạ vàng của nó không lẫn vào đâu trong cả chồng sách vở.
Tôi lật qua vài trang của tờ tạp chí Nhi khoa. Không bao lâu sau, Stephanie đã trở lại. Cô đóng cửa và ngồi vào chiếc ghế ở bàn làm việc.
- Tình hình thế nào? - Cô hỏi.
- Tốt đẹp, không có sự phản kháng của bà Bottomley.
- Bà ta cản trở anh sao?
- Không, chỉ tỏ thái độ giống như cô đã thấy rồi đấy - Tôi kể cho Stephanie về cảnh tượng tôi chứng kiến giữa bà y tá và Chip - Bà ta đã cố gắng để lấy lòng Chip nhưng lại nhận kết quả ngược lại. Ông ta xem bà ấy là kẻ nịnh bợ không biết ngượng, mặc dù ông ta cho rằng quả thật bà ấy đã chăm sóc rất tốt cho Cassie. Hơn nữa, có thể ông ta đã phân tích đúng lý do tại sao bà ấy lại hằn học với tôi: đó là sự ganh đua để nhận được sự chú ý của bệnh nhân quan trọng (VIP).
- Biểu hiện tìm kiếm sự chú ý hay sao? Đó là biểu hiện của hội chứng Munchausen rồi đấy.
- Đúng thế, ngoài ra bà ấy đúng là đã tới nhà thăm bọn họ. Nhưng chỉ vài lần, cách đây một thời gian. Vì thế, dường như bà ấy không có khả năng là người đã gây ra chuyện. Nhưng chúng ta cần phải để mắt tới bà ấy.
- Tôi cũng đã thấy ngờ ngợ rồi, anh Alex ạ. Tôi hỏi những người xung quanh về bà ấy. Văn phòng y tá nói rằng bà ấy cái gì cũng nhất. Bà ấy liên tục được đánh giá là giỏi nhất, không hề có lời ra tiếng vào. Và theo những gì tôi được biết thì các bệnh nhân bà ấy chăm sóc không hề có các khuôn mẫu bệnh lạ nào. Nhưng đề nghị của tôi vẫn để ngỏ - nếu bà ta gây phiền nhiễu, tôi sẽ chuyển bà ta đi chỗ khác.
- Hãy để xem tôi có thể tìm cách hợp tác được với bà ấy không. Cindy và Chip có vẻ quý bà ấy.
- Ngay cả khi bà ấy là một kẻ nịnh bợ ư?
- Kể cả như thế. Mà ông ta cũng tiện thể nghĩ luôn cả bệnh viện này đều như thế. Ông ta không muốn nhận được sự đối xử đặc biệt nào.
- Nghĩa là sao?
- Ông ta chẳng nói rõ là thế nào nhưng có nói rất cụ thể rằng ông ta thích cô đấy. Ông ta có một mối lo chung chung rằng có thể bệnh viện sẽ bỏ qua điều gì đó bởi vì vai vế của bố ông ta. Hơn nữa, ông ta có vẻ rất chán ngán. Cả hai vợ chồng họ đều thế.
- Chúng ta thì không à? - Stephanie đáp - Thế suy nghĩ ban đầu của anh về bà mẹ thế nào?
- Chị ta không hẳn như những gì tôi đã nghĩ - cả hai vợ chồng họ. Họ dường như là những người có lối sống lành mạnh và cũng khá khác nhau. Chị ta rất... tôi nghĩ từ hợp nhất là "căn bản". Đơn giản. Nhất là khi chị ta lại là con dâu của một người có tiền chứ... Còn Chip thì lớn lên trong nhung lụa, nhưng ông ta có vẻ gì đó không phải là con trai của một ông chủ.


- Anh muốn nói tới khuyên tai?
- Cái khuyên tai, nghề nghiệp ông ta chọn, cách ông ta xử sự nói chung. Ông ta nói việc tuân thủ các quy tắc đã khiến ông ta đau khổ và phải nổi loạn. Có lẽ, cưới Cindy là một phần của hành động nổi loạn ấy. Hai người có tuổi tác hơn kém nhau tới mười hai năm. Phải chăng chị ta là học trò của Chip?
- Có thể lắm, tôi không biết chắc. Điều này có liên quan gì tới hội chứng Munchausen không?
- Không hẳn. Tôi lại đi lạc đề một chút rồi. Nói về hồ sơ Munchausen, bây giờ vẫn còn quá sớm, không thể nói được gì nhiều về chị ta. Đúng là trong lúc nói chuyện chị ta đã sử dụng một số biệt ngữ và có sự đồng cảm rất cao với Cassie - Tôi có cảm giác hai mẹ con họ có một mối thần giao cách cảm. Vẻ bề ngoài của mẹ con họ rất giống nhau - con Cassie đúng là mô hình thu nhỏ của mẹ nó. Tôi nghĩ, điều này càng làm cho mối đồng cảm của họ tăng lên.
- Nghĩa là nếu Cindy có điều gì đó bất mãn thì Cassie cũng sẽ cảm nhận được?
- Có thể lắm - Tôi đáp - Nhưng tôi vẫn chưa thể giải thích được thế nào. Thế Chad có giống con bé không?
- Tôi chứng kiến thằng bé đó mất mà, Alex - Stephanie lấy tay che mặt, dụi mắt rồi ngước lên trời - Tất cả những gì tôi còn nhớ là thằng bé khá xinh xắn. Nó màu xám giống như những tượng tiểu thiên sứ người ta vẫn thường đặt ở trong vườn. Nói thật, tôi đã cố không nhìn vào thằng bé.
Stephanie cầm cốc cà phê lên như sắp quẳng đi.
- Trời ơi, đúng là cơn ác mộng. Tôi đã phải đem thằng bé xuống nhà xác. Thang máy dành cho nhân viên bị kẹt nên tôi phải đứng chờ, tay ôm lấy cái gói xác. Những người khác đi qua, nói chuyện lung tung - lúc đó tôi đã muốn thét vào mặt họ. Cuối cùng, tôi phải đi bộ tới cầu thang máy công cộng, đi xuống cùng với vài người khác. Họ là những bệnh nhân và cha mẹ bệnh nhân. Tôi cố không để ý tới cái gói xác nên bọn họ cũng không biết đó là cái gì.
Chúng tôi ngồi im một lát rồi Stephanie lên tiếng:
- Làm tí cà phê nhé.
Nói rồi cô cúi người về phía cái máy màu đen nho nhỏ và bật nút. Một chiếc đèn màu đỏ sáng lên.
- Đã sẵn sàng rồi đấy. Hãy uống cà phê để xua tan đi những rắc rối. Còn đây là những tài liệu tham khảo tôi muốn đưa cho anh.
Cô lấy một mẩu giấy từ mặt bàn và đưa cho tôi. Đó là danh sách của khoảng 10 bài báo.
- Cảm ơn cô.
- Anh có còn để ý thấy gì khác ở Cindy không?
- Không thờ ơ lãnh đạm nhiều mà cũng không có biểu hiện tìm kiếm sự chú ý mạnh. Ngược lại, chị ta dường như rất bình tĩnh. Còn Chip thì khẳng định rằng người dì đã nuôi dưỡng chị ta lớn là một y tá, vì thế chúng ta có thể thấy được mối liên quan nào đó đến vấn đề y tế rồi, ngoài ra chị ta còn là kỹ thuật viên hô hấp nữa. Nhưng bản thân những điều này thôi thì hoàn toàn không phải là bằng chứng gì cả. Những kỹ năng nuôi con của chị ta dường như rất tốt - thậm chí phải gọi là tiêu biểu mới đúng.
- Thế còn mối quan hệ với chồng chị ta thì sao? Anh có thấy họ căng thẳng không?
- Không. Thế còn cô?
Stephanie lắc đầu rồi cười:


- Nhưng tôi nghĩ những gã đàn ông các anh thường lừa dối giỏi lắm.
- Sáng nay tôi lại không mang theo đồ nghề mới chết chứ. Thực ra, hai vợ chồng họ dường như khá hoà thuận với nhau.
- Vậy là một đại gia đình hạnh phúc - Cô đáp - Anh đã bao giờ gặp một vụ nào thế này chưa?
- Chưa bao giờ - Tôi đáp - Những người bị hội chứng Munchausen thường tránh các nhà tâm lý học và bác sĩ tâm thần giống như tránh bệnh dịch vậy bởi vì chúng tôi là khắc tinh của những căn bệnh kiểu ấy. Trường hợp phổ biến nhất mà tôi đã chứng kiến là hiện tượng chạy khắp các bác sĩ. Họ là những bậc cha mẹ cứ nghĩ rằng con mình bị đau ốm nên đã chạy hết từ bác sĩ này tới chuyên gia nọ nhưng chẳng ai tìm ra triệu chứng thật sự nào. Khi còn đang hành nghề, tôi tôi hường nhận được nhiều lời giới thiệu từ các bác sĩ bị họ làm cho phát điên lên. Nhưng tôi không bao giờ điều trị cho họ lâu cả. Nếu bọn họ có đến thì ban đầu tỏ ra khá chống đối nhưng rồi hầu hết đã nhanh chóng bỏ cuộc.
- Những người chạy khắp bác sĩ à - Stephanie nói - Anh không bao giờ nghĩ họ là những người bị bệnh Munchausen dạng nhẹ hay sao?
- Có thể họ cùng một động lực nhưng ở mức độ nhẹ hơn. Họ thường có những nỗi ám ảnh về sức khoẻ, muốn được mọi người chú ý tới trong khi nhảy nhót vui sướng.
- Đó là những vũ điệu quỷ quái - Cô nói - Thế còn Cassie thì sao? Con bé có phản ứng như thế nào?
- Đúng như cô mô tả - con bé ấy đã sợ phát khiếp khi nhìn thấy tôi, nhưng cuối cùng nó cũng bình tĩnh trở lại.
- Vậy là anh làm tốt hơn tôi rồi.
- Tôi đâu có dùng kim tiêm chọc nó, Stephanie.
Cô nở nụ cười chua chát.
- Có lẽ tôi đã chọn nhầm lĩnh vực hành nghề rồi. Vậy còn gì khác anh có thể nói cho tôi biết về con bé đó nữa không?
- Nó không có biểu hiện bệnh lý đặc biệt nào lớn cả, duy nhất bị chậm phát triển khả năng ngôn ngữ một chút thôi. Nếu khả năng ngôn ngữ của nó không tiến triển trong vòng sáu tháng tới, tôi sẽ kiểm tra một cách đầy đủ về mặt tâm lý, kể cả xét nghiệm thần kinh xem có rối loạn về tâm thần hay không.
Cindy bắt đầu sắp xếp đống hổ lốn trên mặt bàn rồi xoay người đối mặt với tôi:
- Sáu tháng à - Cô nói - Không biết liệu đến lúc đó con bé có còn sống không nữa.

Chú thích
(1) Một loại đồ chơi trẻ em gồm sợi dây cuộn vào trục và con lăn.
(2) Tuần báo tâm lý quốc gia.
(3) Tạp chí Y tá Đăng ký.



++++++++++++++++++++++++++++


Chương 6

Phòng chờ của bệnh viện đang rất nóng rực bởi sự bất nhẫn và số đông con người. Rất nhiều bà mẹ đột nhiên rạng rỡ hy vọng khi nhìn thấ Stephanie lúc cô đưa tôi ra ngoài. Cô cười và nói:
- Tôi sẽ trở lại ngay thôi.
Rồi tiếp tục đưa tôi ra tới ngoài hành lang.
Một nhóm bác sĩ mặc áo choàng trắng và một người mặc bộ com lê vải flannel xám đang đi ra ngoài. Người mặc áo trắng dẫn đầu trông thấy chúng tôi liền gọi:
- Bác sĩ Eves!
Stephanie nhăn mặt:
- Tuyệt thật!
Cô dừng lại. Ba người đàn ông tiến sát đến. Hai người mặc áo choàng trắng đều ở độ tuổi năm mươi và có vẻ mặt béo tốt, râu nhẵn nhụi như những bác sĩ trực lâu năm.
Người đàn ông mặc com lê dáng doanh nhân thì trẻ hơn, khoảng ba tư, ba lăm tuổi và vạm vỡ. Anh ta cao chừng 1mét 8, nặng khoảng 100 cân, vai tròn và rộng, có vồng mỡ và cái đầu hình trụ rất to. Anh ta có bộ tóc màu nước rửa bát và khuôn mặt dịu dàng ngoại trừ chiếc mũi hình như đã bị vỡ hay bị lắp ghép không hoàn chỉnh. Bộ ria mỏng manh không làm cho khuôn mặt chó chút chiều sâu nào. Anh ta giống một tay chơi trò chơi kinh doanh. Anh ta đứng ở phía sau những người khác, quá xa nên tôi không đọc được tấm thẻ của anh ta.
Người bác sĩ dẫn đầu đoàn có thân hình đầy đặn và cao lớn. Ông ta có đôi môi mỏng tang và bộ tóc xoăn đang hói dần, màu tóc đã trắng xoá để dài. Chiếc cằm to chìa ra làm cho mặt ông ta có vẻ đang chuyển động về phía trước. Đôi mắt ông nhanh nhẹn và có màu nâu, cô da hồng hào và lấp lánh như thể vừa mới từ bồn tắm hơi chui ra. Hai vị bác sĩ hai bên ông có tầm vóc trung bình, tóc đã điểm bạc và đeo kính. Của một người là tóc dả.
Ông bác sĩ cằm chìa nói:
- Thế giới thật là tròn.
Đoạn ông ta quay sang tôi và nhíu mày liền mấy cái.
Stephanie giới thiệu:
- Đây là bác sĩ Delaware, thành viên đội chúng ta.
Ông ta vội chìa bàn tay ra:
- Rất hân hạnh được gặp anh. Tôi là George Plumb.
- Rất vui được gặp ông, bác sĩ Plumb.
Một cái bắt tay rất chặt.
- Delaware này - Ông nói - Anh ở khoa nào nhỉ, thưa bác sĩ?
- Tôi là bác sĩ tâm lý.
- A, thế à.


Hai người đàn ông tóc điểm bạc nhìn tôi nhưng không nói năng hay cử động gì. Người đàn ông mặc com lê dường như đang đếm những cái lỗ trên trần nhà cách âm.
- Bác sĩ Delaware cộng tác với khoa Nhi của chúng tôi - Stephanie giải thích - Vai trò của ông ấy là tư vấn viên trường hợp của Cassie Jones - giúp gia đình giảm bớt những căng thẳng.
Plumb đảo mắt nhìn Stephanie:
- A, vậy là rất tốt.
Ông ta chạm nhẹ vào cánh tay Stephanie. Cô ấy để yên một vài giây rồi rụt tay lại.
Ông ta lại cười.
- Tôi và cô cần phải hội ý một chút, Stephanie ạ. Tôi sẽ bảo thư ký của tôi gọi điện cho thư ký của cô để thu xếp.
- Tôi không có thư ký nào hết, thưa ông George. Cả năm người chúng tôi có chung một bà thư ký.
Hai người có mái tóc hoa râm cùng nhìn Stephanie như thể cô đang lơ lửng trong một cái lọ. Người mặc com lê thì đang nhìn đi đâu đó.
Plumb vẫn không ngớt cười.
- Đúng rồi, đó chỉ là thuật ngữ thôi mà. Được rồi, để cô thư ký của tôi gọi bà thư ký của cô vậy. Hãy giữ gìn sức khoẻ nhé, Stephanie.
Ông ta dẫn đoàn người đi chỗ khác, dừng lại cách đó vài mét ở cuối hành lang, rồi họ cùng nhìn lên, nhìn xuống bức tường như đang đo đạc nó.
- Này chàng trai, anh sẽ tháo gỡ những cái gì đây? - Stephanie thì thầm.
Plumb tiếp tục bước đi cho đến khi nhóm người biến mất ở chỗ ngoặt.
Tôi hỏi:
- Chuyện này là thế nào?
- Là chuyện về tiến sĩ Plumb ấy à? Ông ấy là giám đốc mới của chúng tôi, tay chân đắc lực của cha Chip đấy - một người có vai vế.
- Giám đốc đồng thời là bác sĩ à?
Stephanie cười:
- Cái gì, anh định nói ông ta mặc áo choàng trắng á? Không đâu, ông ấy không phải là bác sĩ, chỉ là kẻ có bằng tiến sĩ ngu xuẩn nào đó thôi... - Đang nói cô dừng ngay lại mặt bừng đỏ - Ôi, tôi xin lỗi.
Tôi bật cười:
- Đừng có khách sáo thế, Stephanie.
- Tôi thực sự xin lỗi anh mà, anh Alex. Anh biết tôi nghĩ về chuyên gia tâm lý các anh thế nào rồi đấy...
- Thôi hãy quên chuyện này đi - Tôi đặt tay lên vai cô - Cô liền luồn hai cánh tay mình quanh eo tôi.
- Tôi sắp mất trí rồi - Cô khẽ nói - Từng phần con người tôi đang tan ra đấy.
- Ông Plumb có bằng cấp về chuyên môn gì?
- Kinh doanh hay quản trị gì đó. Ông ta đã lợi dụng triệt để tấm bằng tiến sỹ của mình - yêu cầu được gọi là Đốc tờ (1), mặc áo choàng trắng. Tay chân của ông ta hầu hết đều là các tiến sỹ - như Firck và Frack, Roberts và Novak và rất nhiều người khác nữa. Bọn họ đều thích la cà trong các nhà ăn của các bác sĩ và ngồi chung bàn. Họ túm tụm lại dù chẳng có lý do gì tham dự, rồi lượn lờ, nhòm ngó, đo đạc và ghi chép. Giống như cách mà Plumb đã dừng lại đo đạc bức tường ấy. Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu sắp tới có thêm vài người thợ môc tới đây làm việc. Họ chia ba phòng thành sáu, biến không gian khám chữa bệnh thành văn phòng hành chính. Và nay ông ta muốn bàn bạc với tôi - chắc chắn sẽ có chuyện xảy ra đấy.


- Cô có thấy bị tổn thương không?
- Ai mà không chứ, nhưng khoa Nhi tổng hợp này lại dễ bị tổn thương nhất. Chúng tôi không có những công nghệ đặc biệt hay những anh hùng để tạo nên những tít lớn trên mặt báo. Phần lớn những gì chúng tôi làm là điều trị cho bệnh nhân ngoại trú, vì thế ngân sách chúng tôi được phân bổ luôn ở bậc thấp nhất trong bệnh viện. Nhất là kể từ khi khoa Tâm lý bị giải tán - Cô cười.
- Ngay cả các thiết bị công nghệ dường như cũng không tránh được chuyện này đâu - Tôi nói - Sáng nay, khi tìm kiếm thang máy, tôi đã đi ngang qua phòng điều trị bằng phóng xạ trước kia nay bị biến thành cái gọi là dịch vụ cộng đồng
- Đó là một cải cách khác của Plumb. Nhưng đừng lo về những bác sĩ điều trị phóng xạ làm gì - họ vẫn ổn. Họ được chuyển lên tầng ba, tầng bốn gì đó, cũng được một diện tích tương đương, có điều bệnh nhân hơi khó tìm được họ một chút thôi. Nhưng một vài phân khoa khác thì gặp rắc rối thực sự - phân khoa Thận, Khớp và các đồng nghiệp khoa Ung thư của anh nữa. Họ bị nhét vào những cái nhà di động ở đâu đó dưới đường kia kìa.
- Nhà di động ư?
- Thì giống như ở Winnebago ấy.
- Đây là những khoa quan trọng, Stephanie ạ. Vậy tại sao họ lại chịu thế chứ?
- Họ làm gì có sự lựa chọn nào, anh Alex ạ. Họ tự ký cam kết ở đó đấy chứ. Theo quy định họ sẽ ở tại toà nhà tháp Lutheran cũ ở Hollywood - Bệnh viện Nhi đồng miền Tây đã mua toà tháp đó hai năm trước, sau khi những người Lutheran quyết định bán nó vì vấn đề ngân sách. Ban quản trị đã cam kết sẽ xây những dãy phòng mới khang trang hơn cho những ai chuyển ra sống tại các nhà di động ấy. Rồi sau đó ban quản trị - mà đúng ra là ông Plumb - mới phát hiện ra rằng cho dù tiền quyên góp đã đủ để mua toà tháp và tu sửa lại những vẫn thiếu tiền phân bổ cho các công việc khác và bảo dưỡng toà tháp đó. Đó chỉ là chuyện thiếu khoảng 13 triệu đôla, vụn vặt thôi. Họ tiếp tục cố tìm cách quyên cho được số tiền đó trong hoàn cảnh hiện nay - lúc này các Mạnh Thường Quân hầu như rất hiếm bởi vì chúng tôi đã có tiếng là một bệnh viện hay làm từ thiện rồi và chẳng còn ai muốn tên của mình được ghi trên các văn phòng của bác sĩ nữa cả.
- Thuê các nhà di động à - Tôi nói - Vậy thì Melendez - Lynch quá sung sướng rồi.
- Năm ngoái, Menlendez-Lynch đã xin từ biệt nơi đây rồi.
- Cô nói đùa đấy phải không? Trước Raoul sống ở đây mà.
- Không sống đây nữa đâu. Giờ tới Miami rồi. Có một bệnh viện ở đó mời ông ta về làm trưởng phòng nhân sự nên ông ta đã nhận lời. Tôi nghe người ta kháo nhau rằng ông ấy kiếm được mức lương bằng ba lần ở đây mà lại bớt đi được một nửa những thứ gây nhức óc.
- Thời gian trôi đi nhanh quá - Tôi nói - Raoul vẫn luôn có những học bổng nghiên cứu. Sao họ lại để anh ta đi?
- Với những người này thì nghiên cứu chẳng có tí mẽo nào cả, anh Alex ạ. Họ không muốn trả thêm chi phí. Đó đúng là một trò chơi hoàn toàn mới - Stephanie rời tay khỏi eo tôi. Chúng tôi bắt đầu bước đi.
- Thế còn những người khác là ai? - Tôi hỏi - cái gã mặc com lê xám ấy.
- Ô, gã ta ấy à - Vẻ mặt cô hơi bực dọc - Đó là Presley Huenengarth - Gã làm trưởng Ban an ninh ở đây đấy.
- Đúng là gã ta có cái vẻ của một người thực thi pháp luật - Tôi nói - Những ai không chịu thanh toán hoá đơn chắc sẽ được ăn nhừ đón đấy nhỉ.
Stephanie cười:
- Không đến nỗi kinh khủng thế đâu. Nợ không trả được của bệnh viện hiện nay là 80%. Gã ta chẳng làm được gì nhiều nhặn ngoài việc lúc nào cũng bám theo Plumb và ẩn nấp đâu đó. Một số nhân viên bệnh viện nghĩ rằng gã ta đang rình mò theo dõi.


- Tại sao họ lại nghĩ thế?
Cô không đáp. Một lát sau mới nói:
- Tôi nghĩ đó là do thái độ của gã thôi.
- Thế cô đã có những kinh nghiệm tồi tệ nào với gã đó chưa?
- Tôi ư? Không. Mà tại sao chứ?
- Thấy cô hơi bất an khi nói chuyện về gã đó nên tôi hỏi vậy thôi.
- Không - Stephanie đáp - Chẳng có chuyện gì cá nhân giữa tôi và gã đó cả. Chẳng qua tôi không ưa cách gã đối xử với những người khác. Gã luôn lù lù hiện ra khi không ai mong đợi gã cả. Gã thường xuất hiện đâu đó ở các góc nhà, xó xỉnh. Có thể anh vừa ra khỏi phòng bệnh nhân là đã thấy gã lởn vởn ở đâu đó rồi ấy chứ.
- Nghe có vẻ hấp dẫn đấy.
- Rất hấp dẫn là khác. Nhưng một cô gái thì biết làm gì? Gọi Ban an ninh à?

*

Tôi đi cầu thang xuống tầng một một mình, thấy cửa phòng An ninh mở, chịu để cho nhân viên an ninh thẩm vấn 5 phút và cuối cùng cũng được cấp một cái thẻ mới có ảnh màu hẳn hoi.
Tấm ảnh màu trông chẳng khác gì ảnh chụp khuôn mặt của một kẻ tội phạm. Tôi kẹp cái thẻ vào ve áo và đi cầu thang bộ xuống tầng hầm, tới thư viện bệnh viện, sẵn sàng kiểm tra những tài liệu tham khảo Stephanie cung cấp cho tôi.
Cánh cửa thư viện đã bị khoá. Một bản ghi nhớ không có ngày tháng được dán vào cánh cửa nói rằng giờ mở cửa mới của thư viện là 3 giờ tới 5 giờ chiều, từ thứ Hai đến thứ Tư.
Tôi tới xem phòng đọc cạnh đó, mở cửa nhưng không có ai ngồi trong. Tôi bước vào một thế giới hoàn toàn khác: những tấm pa-nô đầy dầu mỡ, tràng kỷ và ghế bọc da dính đầy bụi bặm, thảm Iran còn tốt nhưng đã bị sờn được trải trên sàn gỗ sồi xếp hình chữ chi được đánh bóng như giày da.
Hollywood dường như thật xa vời.
Trước kia đây là nhà của một bà chủ đất vùng Cotswolds (Anh), toàn bộ ngôi nhà được quyên góp cho bệnh viện từ rất lâu - trước khi tôi tới đây làm bác sĩ thực tập - được chuyển qua Đại Tây Dương và xây dựng lại theo chỉ dẫn tài chính của một Mạnh Thường Quân người thân Anh. Người này nghĩ rằng các bác sĩ cần phải có một chỗ giải trí hạng sang. Vị Mạnh Thường Quân này chưa từng có một giờ nào sống cùng các bác sĩ ở Bệnh viện Nhi miền Tây..
Tôi sải bước ngang qua phòng đọc và thử mở cánh cửa nối với thư viện. Cánh cửa mở.
Căn phòng không có cửa sổ tối như hũ nút nên tôi bật đèn lên. Hầu như tất cả các giá sách đều trống rỗng; một vài cái còn chứa mấy chồng báo mỏng xếp lộn xộn. Mấy đống sách vứt lung tung trên sàn. Bức tường phía sau hoàn toàn trống trơn.
Cái máy tính trước kia tôi vẫn sử dụng để tìm kiếm thông tin về y học nay không thấy đâu. Cả hộp catalog bằng gỗ sồi vàng có những tấm thẻ tìm kiếm viết tay cũng thế. Đồ đạc duy nhất là cái bàn bằng sắt màu xám. Trên mặt bàn dán một mẩu giấy. Đó là bản ghi nhớ liên bệnh viện, có đề ba tháng trước.
Gửi tới: Đội ngũ chuyên môn.
Nơi gửi: G.H.Plumb, Thạc sỹ quản trị kinh doanh, Tiến sỹ quản trị kinh doanh, Giám đốc điều hành.
Vấn đề: Cấu trúc lại bệnh viện.


Theo đề nghị của đội ngũ chuyên môn và quyết định của Uỷ ban nghiên cứu, Ban giám đốc bệnh viện và Tiểu ban tài chính của Ban giám đốc, danh mục tra cứu thư viện y học sẽ được chuyển sang hệ thống máy tính hoá đầy đủ sử dụng chương trình tìm kiếm dữ liệu thư viện tiêu chuẩn Orion và Melvyl. Hợp đồng chuyển đổi đã được đưa ra mời thầu, sau khi xem xét và tính toán giá cả, chi phí cẩn thận đã quyết định trao cho công ty BIO-DAT tại Pittsburgh, b ang Pennsylvania, một công ty chuyên về các hệ thống tìm kiếm khoa học và y học. Lãnh đạo BIO-DAT đã thông báo cho chúng tôi rằng toàn bộ quá trình thay thế sẽ được hoàn tất trong khoảng ba tuần khi họ đã có đủ tất cả các dữ liệu cần thiết. Theo đó, các thẻ hồ sơ hiện nay của thư viện sẽ được chuyển tới trụ sở BIO-DAT ở Pittsburgh trong thời gian chuyển đổi, và trở về Los Angeles vì mục đích lưu trữ và hoạt động lưu trữ sau khi việc chuyển đổi đã kết thúc. Rất cần sự hợp tác và giúp đỡ của mọi người trong thời gian chuyển đổi.
Ba tuần đã bị kéo dài ra thành ba tháng.
Tôi lướt tới ngón tay dọc theo mặt bàn sắt. Một lớp bụi đen kịt bám vào ngón tay.
Tắt đèn, tôi rời khỏi căn phòng.

Đại lộ Hoàng Hôn là sự hoà trộn của đam mê và bẩn thỉu, những tia hy vọng của dân nhập cư và những tội trọng dễ dàng diễn ra.
Tôi lái xe qua các câu lạc bộ "thịt người", những ổ nhạc mới, những bảng quảng cáo khổng lồ, và cửa hàng quần áo dành cho dân "biếng ăn" trên đường Strip, đi qua Doheny và tới vùng đất Beverly Hills hái ra tiền. Qua đoạn đường rẽ, tôi lái thẳng tới một nơi thường diễn ra những nghiên cứu khoa học nghiêm túc. Nơi Chip Jones đã tiến hành công trình nghiên cứu của anh ta.
Thư viện Y - Sinh tràn ngập những con người ham tìm hiểu và bị ép buộc phải nghiên cứu. Ngồi cạnh một trong những máy tính là một người mà tôi nhận ra.
Khuôn mặt bụi đời, đôi mắt sôi nổi, hai hoa tai lủng lẳng bên má và tai trái còn có thêm một chuyến khuyên. Mái tóc nâu để dài ngang vai. Một đường cổ áo màu trắng hiện ra bên ngoài chiếc cổ áo tròn màu xanh dương.
Lần cuối cùng tôi nhìn thấy nàng là khi nào nhỉ? À, ba năm trước. Vậy là nàng đã hai mươi tuổi.
Tôi tự hỏi nàng đã có bằng tiến sỹ hay chưa?
Nàng đang gõ vào bàn phím rất nhanh, dữ liệu bay vù vù lên màn hình máy tính. Tới gần, tôi thấy rằng đó là một bài viết bằng tiếng Đức. Chữ neuropeptide liên tục được đánh vào.
- Chào Jennifer.
Nàng quay người lại.
- Ôi, anh Alex.
Nàng cười thật tươi rồi đặt nụ hôn lên má tôi và rời khỏi ghế.
- Đã trở thành tiến sỹ Leavitt chưa đấy? - Tôi hỏi.
- Đến tháng Sáu này ạ - Nàng đáp - Em đang làm cho xong luận án.
- Xin chúc mừng em. Chuyên môn em nghiên cứu là giải phẫu thần kinh à?
- Hoá học thần kinh ạ - thực dụng hơn, phải vậy không?
- Em vẫn có dự định vào học tại trường y đấy chứ?
- Vào mùa thu sang năm. Em tới Stanford học.
- Khoa tâm thần chứ?
- Em cũng không biết nữa - Nàng đáp - Có thể là gì đó... thực tế hơn. Em không có ý đả kích anh đâu. Em vẫn chưa vội và muốn xem có gì hấp dẫn em đã.
- Đúng rồi, chẳng việc gì phải vội cả - mà, năm nay em mười hai tuổi rồi nhỉ?
- Hai mươi chứ. Em sẽ tròn hai mốt vào tháng sau đấy.
- Tiến sỹ trẻ quá đấy.
- Thế khi anh lấy bằng tiến sỹ, anh không trẻ chắc?
- Nhưng không trẻ như em. Khi đó tôi đã có râu dài rồi.
Nàng lại cười.
- Gặp anh ở đây vui quá. Anh có nghe tin tức gì về Jamey không?
- Tôi nhận được một tấm bưu thiếp nhân ngày Giáng sinh. Cậu ta gửi từ New Hampshire. Ở đó, cậu ta đã thuê một nông trại. Chắc là để làm thơ đấy.
- Anh ấy... vẫn ổn đấy chứ ạ?

thay đổi nội dung bởi: APOLONG, 02-04-2009 lúc 12:08 AM. Lý do: Gộp 2 bài gần nhau
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #6  
Cũ 01-04-2009, 11:52 PM
APOLONG's Avatar
APOLONG APOLONG is offline
Điều Hành Viên
 
Tham gia: 14/11/2008
Họ và tên: Apolong
Bài viết: 677
Xã: Tình khác
Gửi tin nhắn qua Yahoo chát tới APOLONG
Default Trả lời : [Truyện Kinh Dị] - Vũ Điệu Quỷ - [+15]

- Tất nhiên là ổn hơn trước. Trên tấm bưu thiếp không có địa chỉ hồi âm và cũng không có tên cậu ta trên danh bạ điện thoại. Tôi đã gọi điện cho bác sĩ tâm thần điều trị cho cậu ta ở Carmel và được bà ấy cho biết Jamey uống thuốc men rất đều đặn. Tất nhiên, đã có ai đó chăm sóc cho cậu ta rồi. Nghe nói, một trong những y tá đã tới đó cùng Jamey.
- Thế thì tốt rồi - Nàng nói - Thật khổ cho anh ấy. Có biết bao điều may rủi đã xảy ra với anh ấy.
- Em nói đúng lắm. Em có liên lạc với ai khác trong nhóm không?
Nhóm đó là những người trong dự án 160, gọi theo chỉ số IQ của bọn họ. Đó là một chương trình giáo dục tăng tốc cho những thần đồng, một thí nghiệm lớn; một trong những thành viên của nhóm đã bị buộc tội là kẻ giết người hàng loạt. Tôi đã có dịp được tham gia vào quá trình điều tra, tận mắt chứng kiến sự hận thù và mục nát...
- ... tại khoa luật của Havard và làm việc cho một quan toà, Felicia học về toán tại Columbia còn David đã bỏ khoa đại học Chicago sau một kỳ học ở đó và trở thành người buôn bán cổ phiếu và làm việc trong các sòng bạc. Anh ta luôn là một gã sống ở thập kỷ 80. Dù sao, dự án đó cũng không còn tồn tại - tiến sỹ Flowers không tái cấp học bổng nữa.
- Vì vấn đề sức khoẻ à?
- Đó là một phần của câu chuyện. Chuyện báo chí viết về Jamey càng làm cho vấn đề nghiêm trọng hơn. Bà ấy đã chuyển tới Hawaii. Em nghĩ bà ấy muốn giảm bớt các căng thẳng - chỉ vì anh thạc sỹ khoa học ấy thôi.
Đây là lần thứ hai trong ngày tôi chạm vào quá khứ, và chợt nhận ra còn nhiều đầu mối vẫn bỏ ngỏ.
- Thế điều gì đã đưa anh tới nơi này - Nàng hỏi.
- Tìm vài tư liệu cho một vụ án ấy mà.
- Có gì thú vị không?
- Có cái gọi là hội chứng Munchausen thế thân. Em có biết nhiều về hội chứng này không?
- Em đã nghe nói về hội chứng Munchausen - người bệnh thường tự hành hạ bản thân mình để giả bệnh, phải vậy không? Nhưng còn thế thân là gì thế?
- Bệnh nhân giả bệnh ở con cái họ.
- Ôi, thế thì thật kinh khủng. Thường là những bệnh gì ạ?
- Hầu như bất cứ loại bệnh tật gì có thể. Biểu hiện thường thấy nhất là rối loạn hô hấp, rối loạn máu, sốt, nhiễm khuẩn, giả co giật.
- Thế thân à? - Nàng thốt lên - Từ đó nghe thật đáng sợ quá, tính toán quá giống như một kiểu hợp đồng kinh doanh ấy. Thật ra anh đang phải làm việc với một gia đình như thế đúng không?
- Tôi cần đánh giá một gia đình để xem chuyện gì đang xảy ra. Hiện vẫn trong giai đoạn chẩn đoán khác nhau. Tôi đang có một vài thông tin sơ bộ nên nghĩ rằng tôi cần phải tới đây để xem qua những ghi chép về căn bệnh này.
Nàng cười:
- Anh vẫn dùng phiếu tra cứu hay đã dùng máy tính rồi?
- Máy tính chứ. Nhưng nếu màn hình hiện thị bằng tiếng Anh tôi mới dùng được.
- Trước anh có tài khoản SAP không?
- Không. Đó là cái gì thế?
- Là Search and Print (tìm kiếm và in dữ liệu) ấy mà. Đó là một hệ thống mới. Các bài báo được nhập vào tệp - những bài đầy đủ thì quét và nhập vào máy. Anh có thể gọi toàn bộ bài viết và in ra. Chỉ có những người trong khoa mới được dùng. Nhưng nếu anh sẵn sàng bỏ tiền trả phí dịch vụ thì cũng được. Ông chủ tịch của em giao cho em chức giảng viên tạm thời và một tài khoản riêng. Ông ấy muốn em đăng tải kết quả nghiên cứu của mình và đề tên ông trên đó. Nhưng thật không may, các báo nước ngoài lại không được nhập vào hệ thống này, vì vậy em phải tìm những tư liệu đó theo cách cổ điển.
Nàng chỉ tay vào màn hình.


- Ngôn ngữ của thầy em đấy. Anh có thích những từ có tới 60 chữ cái và umlaut (2) này không? Ngữ pháp mới điên khùng chứ, nhưng mẹ em giúp em những đoạn khó.
Tôi nhớ về người mẹ của nàng. Một phụ nữ to lớn và dễ thương, thơm ngát như đường và bột. Trên cánh tay của bà có những con số màu xanh.
- Anh hãy xin một tấm thẻ SAP - Nàng nói - Đó là bước đầu tiên đấy.
- Không biết liệu tôi có đủ điều kiện o vì chức vụ của tôi được bổ nhiệm ở nơi khác.
- Em nghĩ anh có thể đấy. Anh chỉ cần trình thẻ chuyên môn và trả một khoản lệ phí. Thời gian làm thẻ SAP sẽ mất khoảng một tuần.
- Thế thì tôi sẽ làm sau vậy vì tôi không thể đợi lâu như thế trong chuyện này.
- Không à. Thế thì thế này vậy. Em vẫn còn rất nhiều thời gian còn dư lại trên tài khoản. Ông chủ tịch muốn em sử dụng hết để ông ấy còn xin kinh phí máy tính lớn hơn vào năm sau. Nếu anh muốn em tìm giúp thì hãy đợi em tìm xong cái này đã rồi em sẽ kiếm tất cả những kiến thức về bệnh nhân Munchausen thế thân cho anh.
Chúng tôi cùng đi thang máy tới phòng SAP ở đỉnh khu nhà tầng. Hệ thống tìm kiếm không khác gì chỗ chúng tôi vừa mới rời đi: máy tính đều được sắp xếp thành hàng trong những phòng nhỏ được ngăn cách. Chúng tôi thấy một chiếc đang còn trống, Jennifer liền tới đó tìm những tài liệu tham khảo nói về bệnh Munchausen thế thân. Màn hình nhanh chóng hiện lên đầy những chữ. Danh sách bao gồm tất cả những bài viết mà Stephanie đã trao cho tôi, và còn nhiều hơn nữa.
- Có vẻ như vụ mới nhất được tìm thấy là năm 1977 - Nàng nói - Lancet. Meadow.R. "Hội chứng thế thân: vùng đất lạm dụng trẻ em".
- Đó là một bài viết rất quan trọng đấy - Tôi nói - Meadow là bác sĩ nhi khoa người Anh. Ông đã phát hiện ra hội chứng này và đặt tên cho nó như vậy.
- Vùng đất à... Ngay cái tiêu đề nghe đã thấy ghê rồi. Và còn có danh sách các chủ đề liên quan được bàn đến nữa này: nào là hội chứng Munchausen, lạm dụng trẻ em, quan hệ tình dục với trẻ em, các phản ứng đặc trưng.
- Hãy xem các phản ứng đặc trưng trước đã.
Chúng tôi dành một giờ sau đó để sàng lọc qua hàng trăm trang tài liệu tham khảo, cuối cùng đã cô đọng lại được hơn một chục bài báo dường như có giá trị. Khi chúng tôi đã xong việc, Jennifer lưu file (tập tin) lại và đánh vào đó một mã số.
- Chúng ta in luôn đấy - Nàng nói.
Máy in được đặt ở phía sau những tấm panô màu xanh xếp dọc theo tường của căn phòng cạnh đó. Mỗi chiếc đều có một màn hình nhỏ, khe nhận thẻ, bàn phím và khay đỡ giấy phía dưới khe ngang rộng hơn 30 centimét khiến tôi nhớ tới cái mồm của George Plumb. Hai trong số máy in ở đó không còn sử dụng được. Một cái được đánh dấu là "đã bị hỏng".
Jennifer khởi đọng máy in bằng cách đưa tấm thẻ nhựa vào khe nhận thẻ, rồi đánh vào đó một mã số bí mật, tiếp theo là các chữ cái thứ tự của những bài báo chúng tôi đã tìm được. Vài giây sau, khay đựng đã chứa đầy các bản in.


Jennifer nói:
- Tự động xếp theo thứ tự đấy. Anh thấy hay không, hả?
Tôi đáp:
- Melvyl và Orion - đó là những chương trình cơ sở, phải không?
- Nguyên thuỷ ấy chứ. Chỉ là một bước tiến nhỏ so với sử dụng thẻ chỉ dẫn.
- Nếu một bệnh viện muốn chuyển đổi sang cách tìm kiếm bằng máy tính và có ít tiền thì liệu có làm hơn thế này không?
- Tất nhiên rồi Có thể hơn nhiều ấy chứ. Hiện đã có hàng ngàn các chương trình phần mềm mới. Ngay cả một người làm công tác văn phòng cũng có thể làm được nhiều hơn thế ấy chứ.
- Thế em có nghe thấy ai nói tới công ty nào có BIO-DAT không?
- Không. Nhưng điều đó có nghĩa gì chứ. Em đâu phải là chuyên gia máy tính. Với em,máy tính chỉ là một công cụ. Mà tại sao vậy? Công ty đó làm gì?
- Họ đang tiến hành tin học hoá thư viện của Bệnh viện Nhi miền Tây, chuyển đổi toàn bộ thẻ chỉ dẫn sang hệ thống Melvyl và Orion. Công việc đó lẽ ra chỉ cần ba tuần là hoàn thành nhưng họ đã kéo dài tới ba tháng rồi.
- Thư viện đó lớn lắm à?
- Không, rất nhỏ là đằng khác ấy chứ.
- Nếu tất cả những gì họ đang làm là mày mò và tìm kiếm thì với một cái máy quét - in, họ có thể làm trong vòng vài ba ngày là xong.
- Thế nếu họ không có máy quét thì sao?
- Thế thì đúng là họ đang ở thời kỳ đồ đá rồi, nghĩa là họ lại dùng tay để nhập dữ liệu. Nhưng nếu là anh thì anh có thuê một công ty có cách làm việc nguyên thuỷ như thế làm việc không khi mà - À, thế đấy.
Khay giấy đã đầy chặt.
- Rất nhanh, chẳng phải mất tí công sức nào cả - Nàng nói - Có lẽ một ngày nào đó họ sẽ còn lập trình luôn cả việc đóng ghim ấy chứ.


Tôi cảm ơn nàng, nói một lời chúc tốt đẹp và lái xe về nhà cùng với đống tài liệu vừa kiếm được để ở ghế hành khách. Sau khi liên lạc với người phục vụ, kiểm tra thư từ, tôi cho cá ăn - mấy con cá chép màu vừa vượt qua thời kỳ mới sinh nay đang lớn mạnh. Tôi ăn nhanh nửa chiếc bánh sandwich nướng kẹp thịt bò còn lại từ bữa tối hôm trước, uống một lon bia và bắt đầu làm viêệ.
Những người thế thân bằng chính con cái họ...
Ba tiếng đồng hồ sau, tôi cảm thấy bất lực. Ngay cả những bài viết khô khốc của các tạp chí y khoa cũng không làm mờ đi được sự thật khủng khiếp.
Thật là một vũ điệu quỷ...
Trong những trường hợp này, nạn nhân thường bị đầu độc bằng muối, đường, rượu, thuốc lá, chất kích thích, thuốc ho, thuốc xổ, thuốc gây buồn nôn, thậm chí là cả phân và nước giải cũng được sử dụng để tạo ra những đứa trẻ "bị vi trùng tấn công".
Trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ mới biết đi thường phải chịu rất nhiều kiểu tra tấn khiến người ta nghĩ tới cả những thí nghiệm của phát xít. Đã có rất nhiều ca bệnh giả rất đáng sợ của trẻ em được tạo ra - gần như tất cả các bệnh đều là ngụy tạo. Bị cáo thường là các bà mẹ, còn nạn nhân thường là các bé gái. Nhìn chung hầu hết các trường hợp phạm tội là các bà mẹ làm người mẫu, rất hấp dẫn và có cá tính, từng biết về nghề y hay lĩnh vực sơ cứu. Ngoài ra, họ thường bình tĩnh một cách lạ thường sau khi sự việc xảy ra - có thể là họ cố thể hiện bề ngoài bình tĩnh nhằm chống chọi hiệu quả với nỗi đau bên trong. Một chuyên gia đã cánh báo với bác sĩ là hãy cảnh giác với những bà mẹ "quá chăm chút" tới con cái.
Những biểu hiện ấy khó nói là gì.
Tôi nhớ lúc Cassie thức giấc, nước mắt của Cindy Jones đã khô. Rồi sau đó cô ta đã dỗ dành, ôm ấp, kể chuyện và cho nó bú.
Đấy là cách chăm sóc con thật tốt, nhưng ẩn chứa trong đấy có gì xấu xa không?
Có thể là gì nữa đây.
Một bài báo khác của tiến sỹ Roy Meadow, nhà nghiên cứu tiên phong trong lĩnh vực này. Ông viết về một phát hiện vào năm 1984 sau khi nghiên cứu thân thế gia đình của 32 đứa trẻ bị động kinh. Kết quả cho thấy có 7 đứa là anh chị em gái của nhau, bị chết và đã được chôn. Toàn bộ đều bị đột tử trong khi ngủ.
Chú thích:
(1) Tiến sỹ, bác sĩ...
(2) Hiện tượng biến âm sắc của một số ngôn ngữ (như tiếng Đức...)

[ Tự động gộp bài ]

+++++++++++++++++++++++++++



Chương 7

Tôi đọc thêm vài bài nữa cho tới 7 giờ, sau đó chuyển sang đọc bản in thử (đọc bông) bài chuyên khảo của tôi vừa mới được chấp nhận xuất bản, sự điều tra tâm lý của một trường có nhiều học sinh nhỏ bị một kẻ bắn tỉa tấn công một năm trước - Hiệu trưởng của trường đó đã trở thành bạn thân của tôi. Sau đó, cô đã trở về Texas để chăm sóc người cha mang bệnh. Ông ấy mất và cô cũng không bao giờ quay trở lại trường nữa.
Câu chuyện chưa có hồi kết...
Tôi gọi tới Robin tại phòng làm việc của nàng. Nàng nói hiện nay đang rất bận, phải cố gắng hoàn thành một dự án cho đúng hạn - đó là đóng 4 cây dàn ghi ta có hình máy bay ném bom Stealth giống nhau cho một ban nhạc rock mạnh, công việc thúc bách trong khi tiền vẫn chưa nhận được. Vì thế, tôi không hề ngạc nhiên khi nghe giọng của nàng rất căng thẳng.
- Em đang mệt à?
- Không. Được nói chuyện với ai đó không say rượu thì thật là tốt.
Có những tiếng la hét ở trong máy. Tôi hỏi:
- Có phải ban nhạc đó không đấy?
- Đúng là những gã ấy đấy. Em đã đá đít bọn họ đi mấy lần rồi nhưng bọn họ cứ quay trở lại. Chẳng khác gì lũ nấm mốc. Lẽ ra người ta phải làm thế nào đó để họ không nhàn rỗi như thế chứ - như là bắt đi đổ rác ở khu khách sạn họ đang sống chẳng hạn. Ôi nào, anh chờ máy nhé. Lucas, cút ra chỗ khác. Có lẽ tao phải đánh cho mày một trận mới được. Xin lỗi anh nhé, con chó đang làm lộn xộn ở chỗ cái cưa máy rồi - Giọng của nàng dịu lại - Này, em phải ra chỗ đó đây. Tối thứ Sáu đi chơi nhé - được không anh?
- Được thôi. Em đến chỗ anh hay anh đến chỗ em?
- Em vẫn chưa biết khi nào mới xong việc. Thế này anh nhé, em sẽ đến nhà đón anh, trướcc 9 giờ tối, được chứ?
- Được.
Tạm biệt Robin xong, tôi ngồi suy tư. Nàng thật độc lập...

[ Tự động gộp bài ]
Tôi lấy cây ghi ta Martin cũ ra chơi một đoạn nhạc trước khi trở lại nghiên cứu. Tôi đọc đi đọc lại những bài báo nói về bệnh Munchausen, hy vọng tìm thấy điều gì đó - manh mối y học có thể tôi chưa biết. Nhưng tìm mãi mà không thấy điều gì mới. Đầu tôi lại hiện lên bộ mặt xám xịt và u uất của Cassie Jones.
Tôi tự hỏi liệu đây có còn là một vấn đề khoa học không - nếu như tất cả nhưng tri thức y học trên thế giới này đều sẽ dẫn tôi đến nơi cần đến.
Có lẽ đã đến lúc phải nhờ đến một kiểu chuyên gia khác.
Tôi gọi điện tới một số máy ở Tây Hollywood. Một giọng nữ ướt át đáp máy:
- Đây là Ban điều tra Blue (Blue Investigations). Văn phòng hiện đã đóng cửa, hãy bắt đầu sau tiếp chuông thứ nhất. Nếu quý khách có việc khẩn cấp, hãy đợi cho tới khi có hai tiếng chuông reo.
Sau khi có tiếng chuông thứ hai reo, tôi bắt đầu nói:
- Tôi là Alex đây, anh Milo. Hãy gọi điện thoại về nhà cho tôi nhé.
Nói xong, tôi lại lấy cây ghi ta xuống.
Tôi chơi được một đoạn của bản "Windy and Warm" thì chuông điện thoại reo. Một giọng vang lên nghe xa xăm:
- Có chuyện gì khẩn cấp à, anh bạn?
- Có phải là Ban điều tra Blue đó không?
- Cảnh sát đây!
- À.
- Trừu tượng quá à? - Người đàn ông trong điện thoại hỏi - Phải chăng anh bị kẻ nào đó quấy rối tình dục?
- Không, không có gì cả. Tôi nghe thấy tiếng ai đó trong điện thoại thì phải?
- Em gái của Rich đấy.
- Có phải là cô bác sỹ nha khoa không?
- Đúng đấy, cô ấy hát hay đấy chứ?
- Hay tuyệt. Nghe cô ấy hát cứ như là Peggy Lee ấy.
- Nhưng anh sẽ phải phát sốt khi cô ấy khoan răng cho anh đấy.
- Thế khi nào thì hai người bắt đầu chuyện bí mật đấy?
- Ôi chao, anh biết rồi đó - chẳng qua là chuyện cơm áo gạo tiền thôi. Tôi chỉ đi kiếm thêm một chút ngoài giờ. Cả ngày ở Sở chán chết, tối về làm thêm tí cho vui thôi.
- Thế anh không còn thích mấy cái máy tính của mình nữa à?

[ Tự động gộp bài ]
- Tôi vẫn thích chúng nhưng chúng lại không thích tôi. Giờ chúng đang kêu những tiếng tít, tít chết tiệt, thật đấy. Đó là tín hiệu kêu cứu của máy đấy, có lẽ nó đang chết dần rồi - Sau tiếng nói cuối cùng của anh là tiếng rẹt rẹt trong máy do tĩnh điện gây ra.
- Anh đang gọi từ đâu về đấy? - Tôi hỏi.
- Điện thoại trên ô tô đấy. Đang trên đường làm nốt công việc.
- Xe của Rick hả?
- Của tôi đấy chứ. Cả điện thoại cũng của tôi luôn. Giờ là thời đại mới rồi, bác sĩ ạ, liên lạc cũng nhanh mà sự thối rữa còn nhanh hơn. Thôi, chuyện đó ta nói sau, giờ thì anh có chuyện gì thế?
- Tôi muốn nhờ anh tư vấn cho vài điểm - một vụ án mà tôi đang theo về...
- Thôi đừng nói thêm nữa...
- Tôi...
- Tôi bảo là đừng nói thêm nữa, Alex ạ. Đừng có trao đổi gì riêng tư trên điện thoại di động, ai cũng có thể nghe được hết đấy. Hãy chờ ở nhà nhé.
Anh cúp máy. 20 phút sau, chuông cửa reo.
- Tôi ở gần đây thôi - Anh vừa nói vừa đi vào bếp - Wilshire cạnh Barrington ấy mà, đi làm thám tử tư cho một cặp ghen nhau.
Tay trai của anh cầm cuốn sổ ghi chép của Sở cảnh sát Los Angeles và chiếc điện thoại di động màu đen to bằng bánh xà phòng. Anh mặc bộ quần áo tiện cho công việc thám tử, đó là chiếc măng tô hải quân màu xanh dương, đôi giày màu nâu thường dùng để đi ở sa mạc. Có lẽ so với lần tôi gặp anh gần đây nhất thì anh đã giảm được khoảng 1,3kg nhưng chắc vẫn nặng tới hơn 200kg, được phân bổ không đều theo chiều dài 1m85, đôi chân dài và nhỏ, bụng phệ, cằm xệ trùm lên cả cổ áo.
Tóc anh chắc vừa mới cắt, phía sau ngắn nhưng ở chỏm thì để dài. Mấy lọn tóc đen lơ phơ trước trán, đã điểm vài sợi bạc. Tóc ở hai mai để dài tới tận *** tai, dài hơn khoảng 2,5cm theo quy định của Sở cảnh sát - nhưng đó không phải là chuyện rắc rối lớn nhất mà anh gây ra đối với Sở cảnh sát.
Milo hầu như không biết gì tới thời trang cả. Từ trước tới giờ, anh chỉ có một mốt quần áo, đầu tóc duy nhất. Hiện những người theo mốt của Melrose lại đang theo kiểu của anh; cũng không biết anh có nhận ra điều này không.

[ Tự động gộp bài ]
Anh cao to, mặt xám đầy những hút trứng cá. Nhưng đôi mắt xanh của anh dường như sáng hơn bình thường.
Anh nói:
- Anh có vẻ như say ấy nhỉ.
Nói xong,anh mở tủ lạnh lấy ra cha nước bưởi ép và nhanh chóng mở nắp bằng hai ngón tay to kềnh.
Tôi đưa cho anh chiếc cốc thuỷ tinh, anh đổ đầy cốc và uống cạn, lại đổ thêm và uống hết.
- Nào là Vitamin C, làm ăn tự do, công việc thú vị - anh chạy quá nhanh so với tôi rồi đấy, anh Milo ạ.
Đặt cốc nước xuống, anh liếm môi:
- Thật ra - Anh nói - Blue là một từ viết tắt đấy. Nó có nghĩa là Big Lug s Uneasy Enterprise (Công ty khó khăn của một người đàn ông to lớn) - Ý kiến của Rick đấy. Dù sao, tôi cũng phải công nhận cái tên ấy là đúng vào lúc này - việc chuyển vào làm ở khu vực tư nhân thật sự không phải là sự chuyển đổi dễ dàng chút nào. Nhưng tôi rất vui vì đã làm được điều này, cũng bởi vì miếng bánh mì thôi thúc tôi. Tôi thấy đã đến lúc cần có suy nghĩ nghiêm túc về an toàn tài chính lúc tuổi già rồi.
- Anh lấy giá dịch vụ thế nào?
- Thì cứ 50 đến 80 đôla một giờ, tuỳ thuộc tình hình. Tất nhiên không dễ dàng như làm một bác sĩ tâm lý, nhưng tôi không thấy có gì phải than thở cả. Thành phố này muốn bỏ phí những gì nó đã dạy tôi, bắt tôi ngồi cả ngày trước màn hình vi tính, thế thì chỉ ho thiệt thôi. Tối đến, tôi mới thực sự làm nghề thám tử.
- Anh có vụ nào thú vị không?
- Ôi chao, chủ yếu là những vụ theo dõi vớ vẩn nhì nhằng thôi, theo yêu cầu của mấy người bị hoang tưởng ấy mà. Dù sao, công việc ấy cũng cho tôi có cơ hội đi đây đi đó.
Anh đổ thêm nước bưởi vào cốc và uống hết.
- Cũng chẳng biết tôi còn tiếp tục công việc ở Sở được bao lâu nữa.
Lấy tay xoa mặt, bỗng nhiên trông anh mệt mỏi, mất hẳn đi vẻ hứng khởi của một chủ doanh nghiệp.
Tôi nghĩ lại những chuyện đã xảy đến với anh trong suốt một năm qua, từ việc đánh vỡ hàm cấp trên vì đã đặt anh vào tình huống nguy hiểm tới tính mạng, rồi sau đó đưa vụ việc lên truyền hình, Sở cảnh sát phải giảng hoà với anh bởi vì sợ làm to chuyện sẽ bị mất mặt. Dù không bị khép vào tội gì cả nhưng anh vẫn phải chịu "nghỉ phép" không có lương mất sáu tháng rồi trở về ban hình sự/cướp giật của Tây Los Angeles và bị hạ một cấp xuống thành thanh tra loại hai. Sáu tháng sau đó, anh mới phát hiện ra rằng ở Tây Los Angeles không hề có công việc dành cho thanh tra đúng nghĩa vì phải cắt giảm ngân sách "không lường trước được".
Họ chuyển anh - "tạm thời" - xuống làm công tác xử lý dữ liệu tại Trung tâm Parker. Tại đây, anh phải chịu sự giám sát của một giáo viên dân sự ái nam ái nữ và học cách chơi máy vi tính. Sở cảnh sát đưa ra lời cảnh cáo không mấy tế nhị rằng việc anh tấn công cấp trên là một chuyện, còn chuyện anh làm gì ở trên giường thì bao giờ cũng được lãng quên và tha thứ.

[ Tự động gộp bài ]
- Anh vẫn nghĩ sẽ ra toà à? - Tôi hỏi.
- Cũng không biết nữa. Rick muốn tôi chiến đấu tới cùng. Cậu ấy nói rằng cái kiểu không giữ lời của họ chứng tỏ họ sẽ không bao giờ cho tôi được yên thân đâu. Nhưng tôi biết nếu tôi có đưa vụ này ra toà đi nữa thì cũng chẳng cải thiện được gì ở Sở cả. Kể cả nếu tôi có thắng đi nữa.
Anh cởi áo măng tô và ném lên bàn.
- Thôi, chuyện tôi thế là đủ rồi. Bây giờ hãy nói xem tôi có thể giúp gì được cho anh?
Tôi kể cho Milo về vụ Cassie Jones, giảng giải qua về hội chứng Munchausen. Anh uống cạn ly nước bưởi và không đưa ra lời bình luận nào. Có vẻ như Milo muốn ngắt lời tôi.
Tôi hỏi:
- Anh đã từng nghe thấy ai nói về chuyện này rồi phải không?
- Không. Mà sao anh hỏi vậy?
- Thường thì nghe chuyện này người khác sẽ có phản ứng mạnh hơn anh.
- Thì tôi chỉ muốn nghe toàn bộ câu chuyện thôi... Thật ra, chuyện này làm tôi nhớ tới điều gì đó. Có một gã đã tới phòng cấp cứu tại Cedars. Trên người gã có cái mụn đang chảy máu. Rick đã trông thấy gã này, hỏi về sự căng thẳng mà gã phải trải qua. Gã đó nói đã đập rất mạnh vào cái chai vì cảm thấy tội lỗi là kẻ giết người mà lại chạy trốn. Có vẻ như gã đã ngủ với một gái gọi sau đó nổi điên và giết cô ta. Thật tê, đấy là một gã giết người do chứng thần kinh đấy. Rick gật đầu và nói ậm ờ mấy câu gì đó; rồi chạy khỏi nơi đó và gọi điện cho Ban an ninh, rồi cho tôi. Vụ án mạng xảy ra tại Westwood. Vào lúc vụ án xảy ra, tôi đang đi cùng xe với Del Hardy, điều tra vài vụ cướp giật ở mãi tận Rio-Robertson. Hai chúng tôi liền tới đó ngay lập tức, tóm cổ gã ta và nghe những gì gã phải nói.
Con gà đó rất thích thú khi thấy chúng tôi. Gã ta kể lể toàn bộ đầu đuôi câu chuyện như thể chúng tôi là vị cứu tinh của gã. Gã nói rành mạch cả những cái tên, địa chỉ, ngày tháng và vũ khí. Gã bác bỏ mọi quy kết rằng gã có liên quan tới những vụ giết người khác và vì thế không bị bắt. Đó là một gã giang hồ, cho dù đúng là gã đang điều hành một doanh nghiệp hẳn hoi, doanh nghiệp chuyên giặt thảm trải nhà. Chúng tôi đưa tên gã vào sổ đen, bắt gã phải khai thật vào băng ghi âm và nghĩ rằng đã tìm ra lời giải cho nhiều vụ án. Tiếp đó, chúng tôi tiến hành xác minh các lời khai thì không chứng minh được gì cả: không có vụ án nào, không có bằng chứng giết người nào tại thời gian và địa điểm như gã đã khai; ở địa chỉ gã đưa cho chúng tôi cũng không có một gái gọi nào sống cả, thậm chí chúng tôi đã tìm luôn cả vùng xung quanh mà cũng không thấy. Cả thành phố Los Angeles cũng không tìm được một gái gọi nào có cái tên và hình dáng như gã miêu tả. Vì vậy, chúng tôi đã đi kiểm tra cả những nạn nhân chưa được xác minh, nhưng không có ai tên là Jane Does ở nhà xác khớp với lời khai. Ngay cả hồ sơ gái điếm tại sở cảnh sát cũng không thấy cái tên như thế. Chúng tôi phải tới cả các thành phố khác, liên hệ với FBI để xác minh với suy nghĩ rằng có thể gã bị điên nên quên nơi đã gây án. Nhưng hỏi đi hỏi lại, gã vẫn cứ khăng khăng về nơi xảy ra án mạng và còn đòi bị trừng trị theo pháp luật nữa.

[ Tự động gộp bài ]
- Tôi không nghĩ thế.
- Không ư? Vậy là gì?
- Thực ra tôi cũng không biết phải bắt đầu từ đâu, anh Milo ạ. Tôi nghĩ tôi chỉ muốn được anh tư vấn.
Anh đặt đôi bàn tay lên bụng mình, cúi đầu rồi ngẩng lên.
- Thật vinh dự được làm ông Bụt của anh đây. Ông Bụt sẽ giúp anh như sau: bắn chết tất cả những kẻ xấu xa, đồi bại. Hãy để một vài vị tiên khác giúp tìm ra chúng nhé.
- Hãy cố tìm xem đâu là những kẻ xấu xa nhé.
- Tất nhiên rồi. Đó là lý do tại sao tôi đề nghị kiểm tra xuất thân trước, ít nhất là đối với nghi can đầu tiên của anh.
- Vậy thì đó là bà mẹ.
- Thế thì kiểm tra xuất thân của bà mẹ trước nhé. Nhưng trong lúc lùng sục đống dữ liệu máy tính, tôi có thể sẽ tìm thêm được một vài kẻ khác nữa. Thế thì công việc này sẽ thú vị hơn rất nhiều so với thứ công tác kiểm tra, bảng lương mà họ bắt tôi phải làm như một hình phạt.
- Thế anh có thể kiểm tra được những gì?
- Về hồ sơ tội phạm. Đó là một ngân hàng dữ liệu của cảnh sát. Thế cô bạn bác sĩ của anh có tham gia vào việc tìm kiếm của tôi không?
- Tại sao?
- Tôi chỉ muốn biết tất cả những giới hạn khi tiến hành điều tra thôi. Việc chúng ta đang làm về mặt kỹ thuật gọi là điều không được phép.
- Thế thì đừng. Không nên để cô ấy dính dáng đến - tại sao lại đặt cô ấy vào nguy hiểm cơ chứ.
- Được thôi.
- Về hồ sơ tội phạm ấy - Tôi đáp - những người bị hội chứng Munchausen thường thể hiện là những công dân cùng kiểu - giống như người giặt thảm mà anh nói ấy. Và chúng tôi cũng đã biết về cái chết của đứa trẻ đầu tiên. Trường hợp đó đã được xem là hội chứng tử vong trẻ sơ sinh đột ngột (SIDS).
Anh nghĩ ngợi một lát rồi nói:
- Đã có báo cáo khám nghiệm tử thi về việc đó rồi - nhưng nếu không có ai nghi ngờ về sự giả dối thì đúng đấy. Tôi sẽ xem làm thế nào để tiếp cận được với những hồ sơ, giấy tờ. Mà anh cũng có thể làm được việc đó chứ, chuyện kiểm tra hồ sơ bệnh viện ấy. Với điều kiện anh phải cẩn thận.
- Không biết tôi có làm nổi việc này nữa không. Bây giờ bệnh viện đã là một nơi hoàn toàn khác.
- Nghĩa là sao?
- An ninh trật tự được thắt chặt hơn nhiều - quân phiệt lắm.
- Ôi - Milo nói - anh không thể trách điều đó được. Khu vực đó của thành phố đã trở nên rất tồi tệ.
Anh đứng dậy và đi tới tủ lạnh kiếm một quả cam và bắt đầu bóc vỏ ở cạnh bồn rửa. Đôi lông mày anh nhíu lại.
Tôi hỏi:

[ Tự động gộp bài ]
- Có chuyện gì thế?
- Tôi đang cố hình dung ra một chiến lược để làm việc này. Dường như cách duy nhất là bắt nghi can tận tay. Đứa bé bị ốm ở nhà phải không?
Tôi gật đầu.
- Vậy cách duy nhất để làm điều đó là theo dõi điện tử đối với nhà nó. Tôi sẽ cài các thiết bị nghe nhìn bí mật trong nhà để ghi lại hành động đầu độc của kẻ nào đó.
- Trò chơi của ngài đại tá hả? - Tôi nói.
Câu nói của tôi làm anh nhăn trán.
- Đúng vậy, đó chính là thứ mà khi bị chọc vào sẽ thấy thích... Ông ta chuyển đi rồi, anh biết đấy.
- Tới đâu?
- Washington DC. Còn nơi nào khác nữa chứ? Ông ta đã làm công việc mới rồi. Nghe qua anh không thể hình dung ra nổi đó là việc gì. Từ 10 giờ đến 1 giờ, ông ta sống ngoài vòng kiểm soát của Chính phủ. Tôi có chép lại địa chỉ và có được một tấm danh thiếp của ông ấy đấy. Thật may là chúng ta đã tiến vào kỷ nguyên thông tin và có vài phần mềm miễn phí để giúp tôi làm công tác thuế má.
- Anh biết ông ấy làm gì rồi chứ?
- Tất nhiên. Thôi, quay lại với chuyện kẻ đã đầu độc đứa bé của anh đi. Chúng ta sẽ tiến hành cài rệp vào nhà con bé. Nhưng nếu anh không có được lệnh của toà án thì những gì anh tìm thấy sẽ không được thừa nhận. Nhưng lệnh của toà án có nghĩa là bằng chứng rõ ràng, và tất cả những gì anh tìm thấy sẽ đáng ngờ. Đó là chưa kể tới việc ông nội của con bé đó là một yếu nhân, và như thế anh càng phải thận trọng hơn.
Anh kết thúc việc bóc vỏ quả cam, đặt nó xuống, rửa tay rồi tách từng múi cam ra.
- Vụ này có thể gây ra đau đớn - đừng có nói với tôi con bé đó xinh xắn thế nào nhé.
- Con bé đáng yêu lắm đấy.
Tôi nói:
- Có mấy vụ án tại Anh, đăng trên một trong những tờ báo bệnh nhi. Họ quay được cảnh các bà mẹ làm ngạt đứa con nhỏ, và tất cả những gì họ đăng tải đó đều là những nghi ngờ.
- Họ ghi băng ở nhà à?
- Tại bệnh viện.
- Đó là một sự khác biệt rất lớn. Mà theo tôi biết thì luật ở Anh khác với luật ở đây rất nhiều... Hãy để tôi suy nghĩ thêm về điều này đx, anh Alex ạ, để xem tôi có thể làm được gì sáng tạo. Lúc này, tôi sẽ tiến hành điều tra hồ sơ trong nước tại Trung tâm Thông tin Tội phạm Quốc gia, xem biết đâu có ai trong bọn họ đã từng dính dáng gì đó trước đây rồi, và chúng ta cần làm gì để kiếm được một cái lệnh. Ông già Charlie đã dạy tôi rất hay - anh nên xem tôi xử lý những dữ liệu này thế nào.
- Đừng tự làm hại mình nhé - Tôi nói.
- Đừng lo. Những tìm kiếm ban đầu không hơn gì điều mà một sỹ quan bình thường vẫn làm khi có kẻ vi phạm giao thông bị bắt. Nếu và khi tôi đào bới sâu hơn, tôi sẽ phải cẩn thận. Bố mẹ con bé sống ở nơi đâu ngoài Los Angeles không?

[ Tự động gộp bài ]
- Tôi không biết - Tôi nói - Tôi thực sự không biết nhiều về bọn họ, tốt nhất là hãy bắt đầu tìm hiểu.
- Được rồi, anh tự làm việc của anh, còn tôi sẽ làm việc của tôi - Anh cúi xuống bàn, nói to:
- Bọn họ là những tầng lớp trên, điều đó có nghĩa là họ học ở các trường tư. Thế thì khó khăn lắm đấy.
- Bà mẹ có thể từng học ở trường công. Có vẻ như cô ta không phải sinh ra trong gia đình giàu có.
- Là người tự tiến thân à?
- Không, chỉ là một người bình thường thôi. Ông chồng là giáo viên đại học. Cô ta có thể là một trong các sinh viên của ông ta.
- Được rồi - Anh mở cuốn sổ ghi chép - Còn gì khác nữa nào? Có thể ông ta từng phục vụ trong quân đội, được huấn luyện sỹ quan chẳng hạn - đó là một công việc khó đấy. Charlie đã xâm nhập được vào các hồ sơ của quân đội, nhưng chẳng có gì hay ho ở đó cả, chỉ toàn dữ liệu về trợ cấp của các cơ quan quản lý cựu chiến binh, những dữ liệu tra cứu.
- Thế các anh làm gì với ngân hàng dữ liệu mật?
- Thì giống như kiểu ông ta chơi còn tôi thì xem. Thế ông bố dạy học ở trường nào?
- Tại cao đẳng cộng đồng Tây Valley, khoa Xã hội học.
- Còn bà mẹ làm nghề gì?
- Không làm nghề gì cả, chỉ ở nhà trông con.
- Và rất chăm chút tới công việc đó của chị ta đúng không. Được rồi, hãy cho tôi một cái tên để làm việc đi.
- Là Jones.
Anh nhìn tôi và tôi gật đầu. Tiếng cười của anh vừa to vừa vang, gần giống như của kẻ say.

thay đổi nội dung bởi: APOLONG, 02-04-2009 lúc 12:17 AM. Lý do: Gộp 2 bài gần nhau
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #7  
Cũ 02-04-2009, 12:18 AM
APOLONG's Avatar
APOLONG APOLONG is offline
Điều Hành Viên
 
Tham gia: 14/11/2008
Họ và tên: Apolong
Bài viết: 677
Xã: Tình khác
Gửi tin nhắn qua Yahoo chát tới APOLONG
Default Trả lời : [Truyện Kinh Dị] - Vũ Điệu Quỷ - [+15]


++++++++++++++++++++++++



Chương 8

Sáng hôm sau, tôi tới bệnh viện vào lúc 9 giờ 45. Nơi đậu xe dành cho các bác sĩ đã gần kín nên tôi phải lái lên tận bậc cao nhất để tìm một chỗ trống. Một người bảo vệ mặc đồng phục cúi người dựa vào cái trụ bê tông, bị bóng râm che kín nửa người, đang hút thuốc lá. Anh ta dán chặt mắt vào tôi khi tôi ra khỏi chiếc Seville và không ngừng dõi theo cho tới khi tôi gắn phù hiệu vào ve áo.
Phòng khám tư yên tĩnh như ngày hôm qua. Có mỗi một cô y tá ngồi ở bàn làm việc và trên biển có ghi McCall.
Tôi đọc phác đồ điều trị của Cassie. Stephanie vừa tới khám cho con bé, thông báo rằng Cassie không có biểu hiện gì nhưng quyết định giữ con bé thêm một này nữa. Tôi tới phòng 505, gõ cửa và tiến vào.
Cindy Jones và Vicki Bottomley đang ngồi trên chiếc ghế dài. Một xấp thẻ nằm trên đùi của Vicki. Hai người bọn họ cùng nhìn lên.
Cindy cười:
- Chào bác sĩ.
- Chào chị.
Vicki nói:
- Thế nhé.
Nói xong bà ta đứng dậy.
Cái giường của Cassie đã được gấp lên thẳng đứng. Con bé đang chơi với căn nhà đồ chơi Fisher-Price. Những đồ chơi khác của con bé, gồm vài con LuvBunny bị ném lung tung trên giường. Cái mâm có chứa bát bột yến mạch vơi một nửa và chiếc cốc nhựa chứa thứ gì đó màu đỏ. Trên ti vi đang phát một bộ phim hoạt hình nhưng tiếng đã bị tắt. Cassie dường như rất thích thú với căn nhà đồ chơi. Nó chăm chú sắp xếp đồ đạc và những con số bàng nhựa. Cái cột treo bình truyền nước dã được đẩy vào góc phòng.
Tôi đặt một bức vẽ xuống giường con bé. Nó liếc nhìn bức vẽ một lát rồi trở lại với đống đồ chơi.
Vicki hành động rất nhanh, trao tập thẻ cho Cindy rồi nắm tay Cindy bằng cả hai bàn tay mình. Tránh ánh mắt nhìn của tôi, bà rảo bước lại giường, xoa mái tóc Cassie và nói:
- Nào xem cháu nào, cô gái ngỗ ngược.
Cassie ngước mắt nhìn lên tức thì. Vicki lại xoa đầu nó rồi dời đi.
Cindy đứng dậy. Hôm nay chị mặc chiếc áo dài màu tím thay cho áo choàng len hôm trước, nhưng vẫn giữ nguyên quần bò và đôi dép săng đan.
- Nào, xem hôm nay bác sĩ Delaware vẽ cho con thứ gì nào? - Chị cầm bức vẽ lên. Cassie chìa tay ra và đón lấy.
Cindy đặt một cánh tay vòng qua vai con bé:
- Một chú voi. Bác sĩ Delaware đã vẽ một chú voi xanh thật đẹp!
Cassie đưa tờ giấy lại gần hơn:
- Chú vo...
- Giỏi quá, Cassie, con giỏi lắm. Bác sĩ có nghe thấy không? Nó nói chú voi đấy!
Tôi gật đầu:
- Thật tuyệt.
- Tôi không biết ông đã làm gì, thưa bác sĩ, nhưng từ hôm qua tới nay, con bé đã nói được khá nhiều rồi. Cassie, con có thể nói lại "chú voi" không nào?
Cassie ngậm miệng lại và vò nát tờ giấy...


Cindy nói:
- Ôi, con tôi.
Vừa nói, chị ta vừa ôm lấy con bé và véo nhẹ vào má nó. Cả hai chúng tôi cùng nhìn Cassie đang cố gắng vuốt cho tờ giấy phẳng ra.
Cuối cùng nó cũng thành công và nói:
- Chú vo...
Nói xong, nó lại vo tờ giấy lại, lần này chặt hơn, thành một cục tròn bằng nắm tay, mắt nhìn vào cục giấy, bối rối.
Cindy nói:
- Xin lỗi bác sĩ Delaware. Có vẻ như chú voi của ông hôm nay không được khoẻ lắm.
- Nhưng có vẻ Cassie lại rất khoẻ.
Chị cố nở nụ cười và gật đầu.
Cassie lại cố gắng gỡ nắm giấy ra lần nữa. Lần này, những ngón tay như đeo thêm găng của nó đã thất bại. Cindy phải giúp nó.
- Đây, con gái yêu... thế thế... chú voi đã tốt hơn rồi.
- Thế việc thuốc thang khám chữa có gì trục trặc không?
- Không hề có gì trục trặc cả, kể từ sáng hôm qua. Chúng tôi chỉ ngồi ở đây - có điều...
- Có điều gì đó chị muốn nói hay sao? - Tôi hỏi.
Chị vắt bím tóc về phía trước ngực và vuốt những lọn tóc ở rìa.
- Chắc mọi người nghĩ tôi bị điên - Cindy nói.
- Tại sao chị lại nói vậy?
- Tôi cũng không biết nữa. Nói ra điều đó thật là ngu ngốc, phải vậy không? Vậy xin ông đừng để ý nhé.
Chị ta quay mặt đi và tiếp tục vuốt bím tóc.
Một lát, Cindy lại ngồi xuống. Nhặt lấy chồng bài, chị cứ chuyển từ tay bên này sang tay bên kia.
- Thực ra chỉ có... - Cindy bắt đầu nói, giọng thật khẽ khàng khiến tôi phải ghé lại gần hơn - Tôi... mỗi lần tôi đưa con bé tới đây, con bé lại trở nên tốt hơn. Nhưng khi tôi đưa nó về nhà với ý nghĩ mọi thứ sẽ tốt đẹp thì chỉ được một vài hôm, chuyện lại đâu vào đó...
- Tức là con bé ốm trở lại đúng không?
Vẫn cúi mặt, Cindy gật đầu.


Cassie lầm bầm điều gì đó với một thứ đồ chơi bằng nhựa. Cindy nói:
- Ngoan nào con.
Nhưng con bé dường như không nghe thấy gì.
Tôi nói:
- Vì con bé ốm trở lại như lúc đầu nên chị rất nản phải không?
Cassie ném đồ chơi xuống đất, nhặt lấy một cái khác và lắc mạnh.
Cindy nói:
- Và đột nhiên con bé lại bình thường, giống như bây giờ đây này. Đó chính là điều tôi muốn nói với ông - rằng chắc mọi người nghĩ tôi điên khùng. Đôi khi chính tôi cũng nghĩ mình bị điên.
Chị lắc đầu và quay trở lại cạnh giường Cassie. Luồn mấy ngón tay vào tóc con bé, chị để cho từng lọn từ từ tuột khỏi tay. Một mắt ghé nhìn vào căn nhà đồ chơi, Cindy nói:
- Này xem này - bọn họ đang ăn những thứ mà con làm cho bữa tối rồi kìa!
Giọng chị nghe vui vẻ tới mức khiến làn môi tôi tê buốt.
Chị đứng đó, chơi đùa với mái tóc của Cassie, tay chỉ vào những con búp bê và mớm lời cho con bé nói. Cassie bắt chước mẹ, nói được gần đúng một số từ.
Tôi hỏi:
- Tôi mời chị xuống dưới uống chút cà phê được chứ? Hãy để Cassie ở lại chơi với bà Vicki.
Cindy nhìn lên. Một tay đặt vào vai Cassie và đáp:
- Không, không được, tôi xin lỗi bác sĩ Delaware nhé. Tôi không thể. Tôi không bao giờ rời khỏi con bé.
- Không bao giờ ư?
Chị ta lắc đầu:
- Không, chừng nào con bé còn ở đây. Điều này nghe thật điên rồ, nhưng tôi không thể. Ông có nghe thấy người ta nói đến quá nhiều... sự việc?
- Đó là những việc gì vậy?
- Tai nạn ấy - có ai đó chẳng may đưa nhầm thuốc tới chẳng hạn. Không hẳn là tôi lo chuyện này thực sự xảy ra đâu. Đây là một bệnh viện tốt. Nhưng... tôi chỉ muốn ở đây thôi. Bỏ quá cho tôi nhé, bác sĩ.
- Không vấn đề gì cả. Tôi hiểu ý chị.


- Tôi chắc chắn chuyện này là vì tôi nhiều hơn vì con bé, nhưng... - Cindy cúi nhưng và ôm lấy con bé. Cassie ngọ nguậy và tiếp tục chơi với mấy con búp bê. Cindy nhìn con bé một cách bất lực.
- Tôi biết mình đang bảo vệ con bé một cách quá đáng - Chị ta nói.
- Không hẳn là quá đáng đâu nếu xét tất cả những gì chị đã trải qua.
- Ôi... rất cảm ơn bác sĩ vì đã nói như thế.
Tôi chỉ tay tới chiếc ghế đẩu.
Chị cười yếu ớt và ngồi xuống đó.
- Chắc chắn chị phải rất căng thẳng - Tôi nói - Tôi muốn nói tới chuyện chị phải thường xuyên tới đây ấy. Làm việc tại bệnh viện là một chuyện nhưng bị phụ thuộc mới là vấn đề đáng bàn.
Chị ta tỏ vẻ bối rối:
- Ông nói làm việc trong bệnh viện ư?
- Chị là chuyên viên về hô hấp, phải vậy không? - Tôi đáp - Thế không phải chị làm việc đó tại bệnh viện sao?
- À, vâng. Nhưng mà chuyện đã lâu lắm rồi. Mà không, thực ra tôi cũng chưa làm việc theo đúng nghĩa ông nói. Tôi còn chưa tốt nghiệp đại học.
- Chị mất hứng thú à?
- Đại loại là như vậy - Nhặt hộp quân bài lên, Cindy vỗ vỗ nhẹ vào một bên đầu gối - Thực ra việc theo học kỹ thuật hô hấp là ý của dì tôi. Bà là một y tá đã đăng ký. Bà nói một phụ nữ nên học lấy một nghề nào đó cho dù không sử dụng tới và tôi nên theo học thứ gì mà xã hội luôn luôn cần đến, chẳng hạn như chăm sóc sức khoẻ. Với sự tàn phá đối với không khí mà chúng ta đang gây ra, rồi việc mọi người hút thuốc rất nhiều nên bà ấy nghĩ kỹ thuật hô hấp sẽ được xã hội cần đến.
- Vậy bà dì chị có vẻ là người rất uy tín?
Cindy cười:
- Đúng vậy đấy. Nhưng giờ, bà đã ra đi rồi - Mắt Cindy chớp nhanh - Bà ấy tuyệt vời lắm. Bố mẹ tôi trao tôi cho bà dạy dỗ từ khi tôi còn là một đứa bé và về căn bản, chính bà đã tự tay nuôi dạy tôi đấy.
- Nhưng bà lại không khuyến khích chị đi theo nghề y tá phải không, mặc dù bà ấy là một y tá đã đăng ký?
- Thực ra, bà ấy khuyên tôi không nên theo nghề y tá. Bà ấy nói rằng làm nghề ấy rất vất vả mà lương lại không cao, và không đủ...


Chị cười ngượng nghịu.
- Và không được các bác sĩ kính trọng phải không?
- Đúng như ông nói đấy, thưa bác sĩ Delaware. Hầu như trong chuyện gì bà ấy cũng có những ý kiến rất xác đáng.
- Bà ấy có phải là y tá của bệnh viện không?
- Không, bà ấy chỉ làm việc cho một bác sĩ duy nhất suốt 25 năm và họ đã sống với nhau như cặp vợ chồng già. Nhưng ông ấy là người đàn ông đẹp trai thực sự, một bác sĩ gia đình kiểu cũ, không giỏi kiếm tiền cho lắm. Dì Harriet luôn luôn giúp đỡ ông ấy về chuyện tiền nong. Bà là người rất chu đáo, có lẽ là do từ thời còn ở trong quân ngũ - bà từng làm trong quân đội tại Triều Tiên, ra mặt trận hẳn hoi. Bà đã lên tới cấp đại uý đấy.
- Thật thế ư? - Tôi thốt lên.
- Vâng. Vì bà mà tôi đã cố gắng làm việc. Thưa ông, chuyện này đã làm tôi nhớ lại quá khứ mấy năm trước kia.
- Chị cũng gia nhập quân đội hay sao?
Chị nở nụ cười nửa miệng, như thể đã đón chờ sự ngạc nhiên của tôi.
- Chuyện như thế thật kỳ lạ với một cô gái phải không? Nó đã xảy ra vào năm cuối cùng của tôi ở trường y. Người tuyển mộ tới và trình bày công việc một cách rất hấp dẫn - nào là được đào tạo nghề nghiệp, được cấp học bổng... Dì Harriet của tôi nghĩ rằng đây là một cơ hội tốt, vì thế tôi đã đồng ý ngay.
- Thế chị ở trong quân đội được bao lâu?
- Chỉ vài tháng - Tay Cindy vuốt bím tóc - Một vài tháng sau đó tôi bị ốm và phải xuất ngũ sớm.
- Rất lấy làm tiếc khi biết điều này, thưa chị - Tôi an ủi - Chắc là ốm nặng lắm.
Cindy ngước nhìn lên, mặt ửng đỏ. Tay tiếp tục vuốt tóc rất mạnh:
- Đúng thế - Chị nói - Bị cúm, cúm rất nặng đã biến chứng thành bệnh viêm phổi. Viêm phổi là loại vi rút ác tính - các doanh trại đều bị lây nhiễm căn bệnh này, trở thành một đại dịch khủng khiếp. Rất nhiều cô gái đã bị ốm. Sau khi tôi khỏi bệnh, họ nói rằng phổi của tôi có thể đã bị suy yếu và không muốn tôi ở trong đội ngũ của họ nữa - Cindy nhún vai - Thế đấy. Sự nghiệp quân ngũ nổi tiếng của tôi là vậy.
- Chắc chị rất thất vọng.
- Không, không hẳn vậy. Mọi thứ hoá ra lại tốt hơn - Chị nhìn Cassie.
- Thế chị đóng quân ở đâu?
- Tại pháo đài Jackson, Nam California. Đó là một trong rất ít nơi người ta còn huấn luyện phụ nữ để phục vụ quân đội. Khi tôi ở đó, trời đang vào hè - chắc ông cho rằng mùa hè thì rất hiếm khi bị viêm phổi phải không? Nhưng vi trùng vẫn là vi trùng, đúng không nào?


- Đúng thế.
- Nơi đó thật ẩm ướt. Ông có thể vừa tắm xong người đã ướt đẫm mồ hôi, nhớp nháp khắp người. Tôi lại không quen với thứ đó.
- Chị lớn lên ở California phải không?
- Tôi là người bản xứ Cali đấy - Cindy đáp, tay như vẫy vẫy một lá cờ tưởng tượng - Dân Ventura đấy.Gia đình tôi gốc Oklahoma. Từ thời đổ xô đi tìm vàng cơ. Một trong những cụ tổ tôi là người Anh-điêng - đó là theo lời kể của dì tôi - cho nên tóc tôi bây giờ mới thế này.
Chị buông bím tóc rơi xuống.
- Tất nhiên, có thể điều này là không đúng - Chị vừa nói vừa cười - Giờ thì mọi người đều muốn được là người Anh-điêng. Đó là mốt - Cindy nhìn tôi - Tôi hỏi khí không phải, thưa bác sĩ Delaware. Họ tên của ông có vẻ như ông cũng có gốc gác người Anh-điêng.
- Trong gia phả nhà tôi có thấy nói thế - một trong những cụ tổ tôi là người Anh-điêng. Tôi nghĩ, tôi là kẻ tạp chủng - nghĩa là mỗi thứ một tí.
- Tốt quá thưa ông. Vậy ông là người toàn mỹ rồi còn gì.
- Tôi cho là như vây - Tôi vừa đáp vừa cười - Thế ông Chip có bao giờ phục vụ quân đội không?
- Chip ư? - Câu hỏi của tôi dường như đã làm Cindy rất ngạc nhiên - Không hề.
- Thế làm sao hai người lại gặp nhau?
- Chúng tôi gặp nhau tại trường đại học. Tôi học một năm tại Cao đẳng cộng động Tây Virginia, sau khi học xong trường kỹ thuật hô hấp. Tôi theo lớp học một thầy một trò và anh ấy là giáo viên của tôi.
Cindy lại liếc nhìn Cassie. Con bé vẫn bận rộn với căn nhà đồ chơi của nó.
- Ông có muốn thực hiện kỹ thuật của mình bây giờ không?
- Vẫn còn hơi sớm - Tôi đáp - Tôi muốn con bé thực sự tin tưởng ở tôi đã.
- Vậy thì... tôi nghĩ con bé đã tin tưởng ở ông nhiều lắm đấy. Nó rất thích những bức vẽ của ông - chúng tôi đã giữ lại tất cả những bức vẽ mà nó không phá hỏng.
Tôi cười:
- Tốt nhất là hãy cứ từ từ. Và nếu như con bé không phải điều trị gì nữa thì không cần phải vội vàng làm gì.
- Đúng thế - Chị đáp - Với tình hình bây giờ, tôi nghĩ chúng tôi có thể đưa con bé về nhà ngay.
- Chị muốn thế không?
- Tôi luôn muốn như vậy. Nhưng điều tôi thực sự mong muốn là con bé sẽ khoẻ hơn.
Cassie liếc nhìn về phía chúng tôi. Cindy hạ thấp giọng như nói thầm:
- Những cơn co giật đáng sợ lắm, thưanh bác sĩ Delaware. Nó giống như là... - Cindy lắc đầu.
- Giống như cái gì?


- Giống như là điều gì đó ở phim ảnh ấy. Nói ra điều này thật kinh khủng, nhưng nó làm tôi nhớ tới bộ phim "The Exorcist" (Phù thuỷ) - Cindy lắc đầu - Tôi chắc bác sĩ Eves cuối cùng sẽ tìm ra nguyên nhân căn bệnh. Phải vậy không? Bà ấy nói rằng chúng tôi sẽ ở đây thêm ít nhất một đêm nữa, có thể là hai để theo dõi. Có lẽ đó là cách tốt nhất. Cassie vẫn luôn khoẻ mạnh như thế này khi ở đây.
Mắt Cindy đã rươm rướm nước.
- Khi chị cho con bé về nhà - Tôi nói - tôi cũng muốn tới thăm nhà luôn thể.
- Ôi, thế thì còn gì bằng... - Những câu chưa được hỏi tràn đầy khuôn mặt chị.
- Mục đích là để tiếp tục tạo sự tin tưởng nơi con bé thôi - Tôi tiếp lời - Nếu tôi có thể làm cho Cassie hoàn toàn thoải mái khi con bé không sử dụng các liệu pháp điều trị, lúc đó tôi sẽ có điều kiện tốt hơn để giúp nó khi cần.
- Thế thì tốt quá. Ông nói rất có lý. Cảm ơn lòng tốt của bác sĩ... Tôi... không biết rằng các bác sĩ vẫn còn đến tận nhà khám bệnh cho bệnh nhân đấy.
- Ngày trước thôi. Bây giờ, chúng tôi gọi đó là tới thăm bệnh nhân tại nhà.
- À, vâng, thật tuyệt. Tôi rất biết ơn vì ông đã dành thời gian vàng ngọc cho chúng tôi.
- Tôi sẽ gọi điện cho chị sau khi mẹ con chị ra viện để chúng ta thống nhất buổi hẹn. Mà chị cho tôi xin địa chỉ và số điện thoại nhà riêng được chứ?
- Tôi xé một tờ bé giấy từ cuốn lịch và đưa cho Cindy cùng với cây bút.
Chị viết lên mảnh giấy ấy rồi đưa lại cho tôi.
Nét chữ đẹp, tròn trịa và thanh thoát.
Nhà của Cassie B.Jones
19574 Dunbar Court
Valley Hills, California
Số điện thoại nhà chị ta bắt đầu bằng mã vùng 818.
- Nhà tôi ở đầu Bắc của đại lộ Topanga - Cindy nói - Cạnh đèo Santa Susanna.
- Vậy là phải đi khá xa mới tới bệnh viện nhỉ.
- Vâng - Chị lấy tay lau mắt, cắn môi và cố nở nụ cười.
- Chị có chuyện gì nữa thế? - Tôi hỏi.
- Tôi chỉ đang suy nghĩ thôi. Khi chúng tôi đưa cháu tới bệnh viện, luôn luôn là vào nửa đêm. Đường cao tốc vắng tanh. Đôi khi tôi rất ghét ban đêm.
Tôi nắm chặt lấy tay chị, những ngón tay mềm yếu.
Lát sau tôi buông tay Cindy ra và nhìn mảnh giấy rồi bỏ vào túi áo.
- Cassie B à - Tôi nói - Chữ B ở đây có nghĩa là gì vậy?
- Là Brooks - đó là tên thời con gái của tôi. Đó là một cách để tưởng nhớ tới dì Harriet. Nghe không nữ tính lắm, tôi nghĩ htế. Brookes mới đúng là cái tên dành cho con gái hơn, giống như Brookes Shields chẳng hạn. Nhưng tôi muốn nhớ tới Harriet. - Chị liếc ngang - Cassie, bọn họ đang làm gì trong đấy thế? Họ đang rửa bát à?
- Bá...


- Giỏi lắm! Bát!
Chị đứng dậy. Tôi cũng đứng dậy theo.
- Chị còn hỏi gì nữa trước khi tôi rời khỏi đây không?
- Không... tôi nghĩ là không.
- Vậy thì mai tôi sẽ ghé qua.
- Vâng, Cassie, bác sĩ Delaware về này. Con chào bác sĩ đi.
Cassie ngước cặp mắt lên. Mỗi tay nó nắm một con búp bê.
- Chào cháu Cassie nhé - Tôi nói.
- Chào bá...
- Giỏi lắm - Cindy nói - Con giỏi lắm.
- Chào...bá... - Hai bàn tay nó vỗ vỗ vào nhau, hai con búp bê đập vào nhau kêu tanh tách - Chào bá...
Tôi bước lại bên giường. Cassie ngước mắt nhìn tôi. Đôi mắt trong sáng, không biểu lộ gì. Tôi chạm tay vào má nó, ấm áp và mềm mại.
- Chào bá... - Một ngón tay nhỏ nhắn sờ vào cánh tay tôi, chỉ trong giây lát. Vết xước nó cào không gây đau đớn gì.
- Chào cháu yêu.
- Chào bá...

Vicki đang ở phòng y tá. Tôi chào và khi thấy bà ta không đáp lời, tôi liền viết đăng ký chuyến viếng thăm của tôi vào bệnh án của Cassie rồi bước tới Five East và đi xuống theo cầu thang bộ. Rời bệnh viện, tôi lái xe tới trạm xăng ở Sunset là La Brea rồi sử dụng điện thoại trả tiền để gọi cho Milo ở Trung tâm Parker.
Đường dây bạn. Tôi thử gọi thêm hai lần nữa, nhưng vẫn không được. Tôi quyết định gọi cho Milo tại nhà riêng và nghe tiếng hát của cô em gái Rick bắt chước tiếng Peggy Lee.
Khi tiếng chuông lần một kêu lên, tôi liền nói nhanh:
- Chào ngài Blue, không có gì khẩn cấp cả nhưng tôi có một vài thông tin có thể giúp anh tiết kiệm thời gian đấy. Ông bố con bé không ở trong quân ngũ bao giờ đâu, nhưng bà mẹ thì có đấy - vậy hãy chuyển đổi hướng đi nhé. Tên thời con gái của chị ta là Brooks. Chị ta từng có thời gian ở pháo đài Jackson, Nam California, bị thải hồi sớm vì bệnh viêm phổi. Nhưng khi nói, chị ta đỏ mặt và hơi bối rối một chút, vì vậy có thể không phải là sự thật hoàn toàn. Có lẽ, chị ta đã làm điều gì đó sai quấy và bị đá đít cũng nên. Hiện nay, chị ta 26 tuổi, khi gia nhập quân đội, chị ta đang ở năm cuối trường y. Vậy là anh đã có khoảng thời gian để mà tìm kiếm rồi đấy nhé.
Trở lại xe, tôi lái hết phần đường còn lại về nhà với suy nghĩ nung nấu về căn bệnh viêm phổi, về liệu pháp hô hấp, và về đứa bé nằm chết xám xịt trong nôi. Khi tới nhà, tôi cảm thấy như hụt hơi.
Tôi thay đồ, mặc quần soóc và áo sơ mi, điểm lại cuộc nói chuyện với Cindy.
Chắc mọi người nghĩ tôi điên... Đôi khi tôi cũng nghĩ mình bị điên.


Phải chăng đó là sự hối lỗi? Một sự thú tội được che đậy? Hay đây chỉ là cách để thu hút sự chú ý của tôi?
Đúng là một vũ điệu.
Chị ta đã tỏ ra hoàn toàn hợp tác cho tới khi tôi gợi ý việc rời khỏi căn phòng.
Đó là bà mẹ mắc hội chứng Munchausen "săn sóc quá mức" ư? Hay đó chỉ đơn thuần là sự lo lắng có lý do của bà mẹ từng mất đi một đứa con và phải chịu nhiều áp lực khác?
Tôi nhớ lại sự ngạc nhiên đến lo lắng của chị ta khi tôi thông báo sẽ tới thăm nhà.
Phải chăng có điều gì đó chị ta muốn che giấu? Hay đó chỉ là sự ngạc nhiên bình thường - một phản ứng logic - bởi vì bác sĩ đã không còn đến thăm bệnh nhân tại nhà nữa?
Còn một nhân tố nguy hiểm nữa: hình ảnh người mẹ của chị ta, đó là bà dì y tá. Một người phụ nữ ngay cả trong trí nhớ đầy yêu thương của Cindy cũng tỏ ra như biểu tượng duy trì kỷ luật.
Một y tá đã làm việc cho một bác sĩ nhưng lại xung đột với ông ta. Một người khinh thường các bác sĩ.
Bà là người đã hướng Cindy vào lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ nhưng lại không muốn chị ta trở thành y tá.
Vừa yêu lại vừa ghét các bác sĩ ư? Hay sự xung đột tư tưởng về cơ cấu quyền lực của ngành y tế? Hoặc bị ám ảnh về bệnh tật và ốm đau?
Phải chăng tất cả những điều này đã được truyền cho Cindy từ trước?
Còn chuyện ốm đau của chính chị ta - bệnh cúm và viêm phổi đã phá hỏng kế hoạch nghề nghiệp.
Mọi thứ hoá ra lại tốt.
Rồi chị ta đỏ mặt, buông rơi bím tóc. Ra viện đúng là chủ đề nhạy cảm với chị ta.
Tôi tới điện thoại đặt trong bếp, quay số 803 để nối với khu vực Nam California và quay tiếp số của trung tâm thông tin ở nơi đó. Pháo đài Jackson hoá ra ở tận Columbia. Tôi viết số điện thoại vào giấy và gọi theo số đó.
Một giọng phụ nữ lè nhè trả lời máy. Tôi hỏi xin số máy của sỹ quan quân y cao cấp nhất căn cứ.
- Ông muốn gặp chỉ huy bệnh viện phải không?
- Vâng, xin cô giúp cho.
- Vậy ông chờ một lát.
Một vài giây sau:


- Văn phòng của đại tá Hedgeworth đây.
- Tôi là bác sĩ Delaware, gọi từ Los Angeles, California. Tôi muốn nói chuyện với ngài đại tá.
- Ông vừa nói tên ông là gì vậy?
- Delaware - Tôi nói thêm chức danh nghề nghiệp và quan hệ của tôi với trường đại học y.
- Đại tá Hedgeworth hiện không có ở văn phòng, thưa ông. Ông có muốn nói chuyện với thiếu tá Dunlap không?
- Thế cũng được.
- Vậy ông chờ máy.
Khoảng vài tiếng chuông, rồi lại một giọng lè nhè vang lên. Giọng này của một người đàn ông.
- Thiếu tá Dunlap đây.
- Chào thiếu tá, tôi là bác sĩ Delaware, từ Los Angeles - Tôi nhắc lại những mối quan hệ của tôi để tạo sự tin tưởng.
- Ô vâng. Tôi có thể giúp gì được cho ông, thưa bác sĩ?
- Chúng tôi đang tiến hành một vài nghiên cứu thử nghiệm - về hình thái lây nhiễm của bệnh dịch do virus gây ra, cụ thể là bệnh cúm và viêm phổi - ở những môi trưởng tương đối kín đáo như nhà tù, trường học tư thục và doanh trại quân đội. Mục đích của nghiên cứu này là muốn so sánh với nghiên cứu nhóm bệnh nhân có kiểm soát ở cộng đồng dân cư nói chung.
- Nghiên cứu bệnh dịch học phải không?
- Chúng tôi đang làm việc ở khoa Nhi, vẫn đang trong quá trình lắp ghép các cơ sở dữ liệu sơ bộ, pháo đài Jackson có thể là một nơi mà chúng tôi muốn nghiên cứu.
- Ô vâng - Anh ta đáp. Một lát sau anh ta mới nói tiếp - Ông có nhận được tiền tài trợ cho dự án nghiên cứu này không?
- Hiện vẫn chưa, tôi mới chỉ nhận được ít tiền ứng trước cho dự án sơ bộ thôi. Việc chúng tôi nhận được tài trợ đầy đủ hay không còn phụ thuộc vào cơ sở dữ liệu mà chúng tôi tạo lập được. Nếu chúng ta cùng viết đề nghị thì đó sẽ là một sự hợpt ác - giữa nơi khảo sát và chúng tôi. Chúng tôi sẽ đảm nhận tất cả các chi phí, chỉ cần tiếp cận các dữ liệu và con số thôi.
Anh ta tặc lưỡi:
- Nghĩa là chúng tôi trao cho ông những dữ liệu của chúng tôi còn các ông sẽ đưa tên chúng tôi lên báo cáo khoa học của các ông phải không?
- Có thể một phần là như thế, nhưng chúng tôi luôn mở rộng cửa cho những đóng góp khoa học.
- Trường y ông đang làm tên là gì vậy?
Tôi liền nói cho anh ta tên trường tôi đang giảng dạy.
- Ô vâng - Anh ta lại cười - Tôi thấy có vẻ thú vị đấy, nếu như tôi vẫn còn hứng thú với công việc đó của ông. Nhưng thôi, tôi nghĩ tôi có thể chấp thuận để được có tên trong công trình nghiên cứu của các ông, nhưng hiện tại thì tôi chưa thể cam kết gì. Tôi cần phải trao đổi với ngài đại tá Hedgeworth trước khi kết luận bất cứ điều gì.
- Thế khi nào thì ông ấy quay lại?


Anh ta lại cười:
- Ông ấy sẽ trở lại trong vài ngày tới. Ông hãy để lại cho tôi số điện thoại của ông.
Tôi đọc cho anh ta số điện thoại nhà riêng của tôi và nói:
- Đó là số nhà riêng, dễ gặp tôi hơn.
- Thế tên ông là gì?
- Là Delaware.
- Giống như tên của một bang ấy nhỉ?
- Đúng thế.
- Và ông đang làm việc với khoa Nhi phải không?
- Đúng - Tôi đáp.
Về nguyên tắc thì như vậy, nhưng tôi hy vọng anh ta không đi sâu theo hướng đó vì nếu làm thế sẽ phát hiện ra ngay rằng tôi chỉ có chức danh mà không giảng bài ở đó đã nhiều năm nay rồi.
- Được rồi - Anh ta đáp - Tôi sẽ gọi lại cho ông trong thời gian sớm nhất. Nếu ông không thấy tôi gọi lại trong vòng một tuần, hãy chủ động gọi lại cho tôi nhé.
- Vâng, thưa thiếu tá. Cảm ơn anh.
- Không có gì.
- Nhưng ngay lúc này, nếu anh có thể cung cấp cho tôi một vài thông tin nhỏ thì tôi sẽ rất biết ơn.
- Là gì vậy?
- Anh có nhớ trận dịch cúm hay viêm phổi nào xảy ra tại căn cứ trong mười năm qua không?
- Mười năm qua ư? Hừm. Chính tôi không ở đây được tới mười năm. Chúng tôi đúng là có một trận dịch viêm màng não khoảng một đến hai năm trước, nhưng đó là do vi khuẩn gây ra. Vụ này rất nghiêm trọng.
- Chúng tôi chỉ hỏi về những căn bệnh đường hô hấp do vi rút gây ra thôi.
- Vậy thì - Anh ta nói - tôi nghĩ thông tin ấy phải ở đâu đó - xin ông chờ cho một lát.
Hai phút sau.
- Đại uý Katz đây, tôi có thể giúp gì được ông?
Tôi nhắc lại câu hỏi.
- Lâu như thế rồi chắc là không còn lưu trên máy tính của chúng tôi - Anh ta đáp - Liệu tôi có thể tiếp tục chuyện này với ông sau được không?
- Được chứ. Xin cảm ơn anh.
Tôi lại đọc cho anh ta số điện thoại nhà riêng rồi đặt ống nghe xuống, lòng tràn đầy thất vọng. Tôi biết rằng thông tin đó chắc là ở đĩa cứng hay đĩa mềm của ai đó, có thể thâm nhập vào được, ngay lập tức, bằng một cú ấn nút.
Mãi tận 4 giờ, Milo mới gọi lại.
- Tôi vẫn đang theo dõi mấy thành viên nhà Jones mà anh giao cho đấy - Anh nói - Bên khám nghiệm tử thi đã có một mẫu đơn ghi chép về cái chết của đứa con đầu lòng nhà chị ta. Tên nó là Charles Lyman Jones Đệ tứ. Không có gì đáng nghi ngờ cả - bị hội chứng đột tử sơ sinh, do bà bạn bác sĩ Stephanie của anh chứng nhận và được bác sĩ Rita Kohler làm chứng.


- Bà ấy là trưởng khoa Nhi tổng hợp, là sếp của Stephanie. Bà ấy là bác sĩ của bọn họ ngay từ đầu, nhưng không có mặt ở thành phố khi Chad mất.
- Ô thế hả.Vậy là có vẻ như không có gì giả dối cả. Hiện nay, về bố mẹ đứa bé thì đây là những gì tôi tìm được. Họ đều sống ở Tây Valley và đóng thuế đất đúng hạn - rất nhiều thuế, bởi vì họ sở hữu nhiều bất động sản lắm. Tổng số tới 50 khoản.
- 50 khoản cơ à? Ở những đâu thế?
- Ngay chỗ họ sống thôi - toàn bộ những khu đường chung quanh nhà đều là của họ hết. Vậy là không tồi đối với một giáo viên đại học, phải vậy không?
- Giáo viên đại học có một quỹ tín thác đấy.
- Đúng vậy. Ngoài ra, họ dường như sống rất đạm bạc và đơn giản. Charles Lyman Đệ tam đi chiếc Volvo 240 1985 bốn cửa. Năm ngoái bị phạt một lần vì tội lái xe quá tốc độ và hai lần đậu sai chỗ, họ đều đóng đúng hạn. Cindy Brooks Jones đi chiếc xe thùng Plymouth Voyager, hỏng hóc suốt ngày. Không biết là bà y tá khó chịu mà anh nói tới có phải là Victoria June Bottomley, sinh ngày 24 tháng 4 năm 1936, tại Sun Valley không?
- CÓ vẻ là bà ấy đấy.
- Hiện nay, bà ấy sống ở Beaver Cleaverland.
- Chắc là anh không nhận được lời nhắn của tôi.
- Không. Anh nhắn lại khi nào và ở đâu?
- Khoảng 11 giờ. Tôi để lại chỗ em gái của Rick.
- Tôi không nhận được cuộc điện khẩn nào cả.
- Đúng thế, bởi vì tôi đã nhắn tại lần bip thứ nhất - Tôi đáp - Vì tôi muốn tôn trọng các thủ tục công việc của anh thôi.
Nói đoạn tôi kể lại cho Milo nghe về những điểm nghi ngờ trong câu chuyện với Cindy và mấy cuộc điện thoại tới Nam California.
- Ôi, ông thám tử - Anh nói - Không kiềm chế được mình nữa hả?
- Với tiền mà anh định trả cho, tôi nghĩ bất kể những gì tôi làm sẽ đem ại món hời đấy.
Anh lầm bầm:
- Biết tôi đã là một món hời rồi. À, mà bệnh viêm phổi hả? Anh đã có thông tin gì nhỉ? Phổi của chị ta bị tắc à, làm cho các kế hoạch của chị ta bị vỡ, vì vậy chị ta trút hận lên phổi của đứa con mình - đại loại là như thế, anh đoán vậy phải không?
- Đại loại là thế. Ngoài ra, chị ta còn được đào tạo về kỹ thuật hô hấp nữa.
- Thế thì tại sao chị ta lại bỏ nghề điều trị hô hấp? Tại sao lại có vấn đề về dạ dày và co giật?
- Tôi không biết, nhưng rõ ràng bệnh viêm phổi đã làm hỏng cuộc đời của chị ta. Và chính những vấn đề về phổi đã thu hút chị ta rất nhiều.

thay đổi nội dung bởi: APOLONG, 02-04-2009 lúc 12:28 AM. Lý do: Gộp 2 bài gần nhau
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #8  
Cũ 02-04-2009, 12:23 AM
APOLONG's Avatar
APOLONG APOLONG is offline
Điều Hành Viên
 
Tham gia: 14/11/2008
Họ và tên: Apolong
Bài viết: 677
Xã: Tình khác
Gửi tin nhắn qua Yahoo chát tới APOLONG
Default Trả lời : [Truyện Kinh Dị] - Vũ Điệu Quỷ - [+15]

- Vì thế chị ta mới đổ hết lên con cái mình nhằm tìm kiếm sự chú ý của mọi người tới chị ta. Hay chị ta đã bị điên vì ốm và chính những đứa con phải gánh chịu hậu quả?
- Có thể là một trong hai giả thuyết đó. Có thể là không giả thuyết nào đúng cả. Cũng có thể là cả hai cùng đúng. Tôi không biết nữa. Có thể tôi chỉ đưa ra giả thuyết vậy thôi, chứ không hề có ý định chơi chữ đâu.
- Tức là lời bình luận của anh về việc chị ta bị điên ấy à. Anh nghĩ chị ta đang nghi ngờ bị theo dõi à?
- Có thể lắm. Hoặc có thể chị ta đang chơi trò với tôi. Chị ta có vẻ bồn chồn lắm, mà sao lại không chứ, khi đứa con của chị ta luôn luôn bị ốm. Đó chính là vấn đề lớn nhất - bất cứ chuyện gì tôi thấy đều có thể giải thích được theo nhiều cách khác nhau. Điều làm tôi suy nghĩ nhiều nhất là chuyện chị ta đỏ mặt và đùa nghịch với tóc của mình khi nói về việc từng ở trong quân đội. Tôi đang tự hỏi không biết câu chuyện về bệnh viêm phổi có thể là sự biện minh cho việc bị đuổi ra khỏi quân đội vì lý do tâm lý hay vì điều gì đó mà chị ta không muốn tiết lộ. Tôi đang mong mỏi phía quân đội có thể khẳng định được điều này, bằng cách này hay cách khác.
- Thế khi nào thì bên quân đội họ gọi điện lại cho anh?
- Gã mà tôi nói chuyện với không hứa hẹn điều gì. Gã nói rằng hồ sơ y tế của bọn họ thời kỳ ấy không được máy tính hoá. Liệu dữ liệu y tế có nằm trong ngân hàng dữ liệu quân đội mà Charlie đã xâm nhập được không nhỉ?
- Không biết, nhưng để tôi hỏi xem.
- Cảm ơn.
- Thế còn đứa bé thế nào?
- Đã hồi phục hoàn toàn. Không còn các vấn đề thần kinh có thể gây ra cho con bé hiện tượng co giật. Stephanie muốn theo dõi con bé thêm một hay hai ngày nữa. Bà mẹ nói muốn về nhà, nhưng không muốn ép các bác sĩ. Chị ta là người luôn vâng lời, xem bác sĩ là người biết tất cả. Chị ta còn tuyên bố Cassie đã nói chuyện được nhiều hơn kể từ khi tôi gặp con bé. Chị ta nói rằng có thể tôi đã làm cho con bé như thế này.
- Trò nịnh hót cũ rích ấy à?
- Những bà mẹ bị hội chứng Munchausen thường nổi tiếng về món này - các bác sĩ nói chung rất thích họ.
- Vậy thì - Anh nói - anh cứ việc hưởng sự phỉnh phờ ấy đi. Anh mà làm trò bẩn thỉu với người phụ nữ này chắc lần sau gặp chị ta sẽ không còn nịnh hót anh nữa đâu



++++++++++++++++++++++++++


Chương 9

Sau khi gác máy, tôi đem thư từ, báo buổi sáng và mấy tờ hoá đơn tới một cửa hàng ăn uống ở Tây Los Angeles. Nơi đó gần như đã kín người - những người già thì cắm cúi bên bát súp, các gia đình trẻ bận bịu với đám con cái còn nhỏ, hai cảnh sát mặc thường phục đứng ở cuối phòng tán gẫu với người chủ, máy bộ đàm của họ đặt trên bàn cạnh những cái bánh mỳ kẹp thịt.
Tôi ngồi xuống chiếc bàn ở góc phòng cạnh mé trái của bàn làm thức ăn, goi món thịt gà tây hun khói ăn với salad bắp cải, và nước sốt CelRay.
Món ăn tuyệt ngon, nhưng những ý nghĩ về bệnh viện cứ chen vào bữa ăn của tôi.
Tới 9 giờ tối, tôi quyết định trở lại bệnh viện thăm con bé một cách bất chợt, để xem Cindy Jones phản ứng thế nào với chuyện này.
Buổi tối không trăng không sao, đèn không sáng; những cái bóng lập loè trên đường Sunset dường như di chuyển chậm chạp, đại lộ gợi nên vẻ đáng sợ, gần hơn với phần tốt đẹp của thành phố. Sau vài dặm hun hút đường, những quán thuốc Thorazine, và những khách sạn đáng sợ dành cho dân lái xe, logo hình trẻ con của Bệnh viện Nhi miền Tây và mũi tên phòng cấp cứu được chiếu sáng trưng...
Bãi đậu xe đã gần như trống không. Những bóng điện vàng nhỏ được để trong những hộp có lưới sắt treo lủng lẳng ở trần bê tông, chiếu sáng xuống tất cả các vùng của bãi đậu xe. Những khoảng trống còn lại gần như tối hoàn toàn, tạo ra một hiệu ứng như con ngựa vằn. Khi bước tới cầu thang, tôi cảm giác ai đó đang theo dõi mình. Tôi quay lại nhìn thì không thấy ai cả.
Hành lang bệnh viện cũng vắng tanh, sàn đá hoa cương không phản chiếu thứ gì cả. Một người phụ nữ ngồi phía sau cánh cửa sổ của phòng thông tin, đang đóng dấu một số giấy tờ. Người vận hành tin tức được trả tiền để làm khó người khác. Một chiếc đồng hồ kêu tích tắc rất to. Mùi băng dính và mùi mồ hôi của động vật vẫn phảng phất những kỷ niệm về sự căng thẳng đã qua.
Có một thứ gì đó tôi đã quên: các bệnh viện vẫn thường khác vào ban đêm. Nơi này cũng đáng sợ như bên ngoài đường phố.


Tôi đi cầu thang máy lên tầng sáu và tới phòng bệnh của con bé, không ai nhìn thấy. Hầu hết các căn phòng đều đóng cửa, những cái biển được viết tay thỉnh thoảng khiến tôi mất tập trung: nào là phòng cách ly, cẩn thận tránh lây nhiễm/không được tới thăm... Một vài cánh cửa vẫn còn mở phát ra tiếng tivi và tiếng lách tách của đồng hồ đo trên ống truyền nước. Tôi đi qua những đứa trẻ đang ngủ và những đứa trẻ khác bị mê hoặc bởi tia ca-tốt. Những ông bố bà mẹ ngồi cứng đơ như bê tông. Chờ đợi.
Cánh cửa gỗ tếch căn phòng của Cassie lôi kéo tôi vào sự im lặng tuyệt đối. Không còn ai ngồi ở bàn làm việc nữa.
Tôi bước tới phòng 505 và gõ cửa rất nhẹ. Không có tiếng trả lời. Tôi mở cửa và bước vào phòng.
Thanh chắn cạnh giường của Cassie đã được dựng lên. Con bé ngủ trong sự bảo vệ của những thanh thép không gỉ. Cindy cũng đang ngủ trên chiếc sô-pha, đầu đặt cạnh chân con bé. Một bàn tay chị còn chìa ra cả bên ngoài thanh chắn, chạm vào nệm của Cassie.
Tôi nhẹ nhàng đóng cửa lại.
Bất chợt một giọng nói vang lên phía sau tôi:
- Họ đang ngủ.
Tôi quay người lại. Vicki Bottomley đang nhìn tôi chằm chằm, hai tay chống lên bộ hông đầy thịt.
- Bà lại trực ca kép à? - Tôi hỏi.
Bà ta trợn mắt và bước đi.
- Bà hãy dừng lại đã! - Tôi quát. Âm sắc của tôi khiến cả tôi và bà ta đều ngạc nhiên.
Bà ta dừng lại, chậm chạp quay người lại.
- Chuyện gì vậy?
- Chuyện gì đang xảy ra ở đây, hả bà Vicki?
- Chẳng có chuyện gì cả.
- Tôi nghĩ là có đấy.
- Anh có quyền nghĩ thế nào cũng được - Bà ta lại bắt đầu bỏ đi.
- Hãy dừng lại - Hành lang trống không làm cho tiếng của tôi vang to hơn. Cũng có thể tôi đã nổi nóng nên nói to như thế.


Bà ta nói:
- Tôi còn đang có việc cần phải làm.
- Tôi cũng vậy, thưa bà Vicki.
Bà ta đưa một tay về phía kệ để bệnh án.
- Anh cứ tự nhiên.
Tôi bước tới chỗ bà ta, thật gần khiến bà khó di chuyển. Bà ta liền lùi lại. Tôi dấn thêm bước nữa.
- Tôi không biết vấn đề của anh với tôi là gì, nhưng tôi nghĩ chúng ta nên giải quyết với nhau ngay tại đây.
- Tôi không có vấn đề gì với bất cứ ai.
- Vậy sao? Vậy phải chăng tôi rất hấp dẫn đối với anh?
Đôi mắt màu xanh lấp lánh. Mặc dù chúng không ướt, bà ta vẫn lấy tay lau.
- Nghe này - Tôi nói, đồng thời rút lui một bước - Tôi không muốn vướng vào bất cứ chuyện gì riêng tư với bà cả. Nhưng ngay từ lúc tôi tới đây, bà đã tỏ ra thù ghét tôi và tôi muốn biết lý do.
Bà ta nhìn tôi chằm chằm, miệng mở ra rồi lại ngậm lại.
- Chẳng sao cả - Bà ta đáp - Tôi sẽ khác, tôi hứa đấy, được chưa?
Bà chìa một tay ra.
Tôi cũng chìa tay ra bắt.
Những đầu ngón tay bà ta chạm vào tay tôi. Một cái bắt tay nhanh rồi bà quay lưng và bước đi.
Tôi nói:
- Tôi sắp xuống dưới uống cà phê. Tôi mời bà được không?
Bà ta dừng lại nhưng không quay mặt về phía tôi.
- Tôi không thể. Hiện tôi đang phải trực.
- Vậy tôi mang một cốc lên cho bà nhé?
Lúc này bà ta mới quay nhanh lại:
- Anh muốn gì vậy, hả?
- Chẳng gì cả - Tôi đáp - Vì bà phải làm việc liền hai ca nên tôi nghĩ bà cần một chút cà phê, thế thôi.
- Tôi không sao cả.
- Tôi từng nghe mọi người nói bà rất tuyệt.
- Anh ám chỉ điều gì vậy?
- Bác sĩ Eves đánh giá bà rất cao trong vai trò một y tá. Cả Cindy cũng vậy.
Hai cánh tay khoanh trước ngực, như thể bà ta đang ôm lấy chính bản thân mình.
- Tôi chỉ làm đúng trách nhiệm của mình thôi.
- Bà có thấy tôi cản trở công việc của bà không?
Đôi vai bà ta nhô lên một chút dường như bà ta đang tìm cách đưa ra câu trả lời. Nhưng cuối cùng bà ta chỉ nói:


- Không hề. Mọi sự vẫn ổn. Được chứ?
- Bà Vicki...
Tôi hứa rồi mà - Bà ta đáp - Xin anh đấy. Tôi có thể đi được chưa?
- Được chứ - Tôi đáp - Xin lỗi nếu tôi ép bà quá mức.
Bà ta mím chặt môi, đứng trụ, xoay người đi về trạm của mình.
Tôi đi tới cầu thang máy Five East. Một chiếc đã bị mắc ở tầng sáu. Hai cái khác thì tới cùng một lúc. Chip Jones bước ra khỏi cửa giữa, mỗi tay cầm một cốc cà phê. Ông ta mặc chiếc quần jeans đã bạc màu, chiếc áo sơ mi trắng cổ đứng, áo măng tô vải bò rất hợp với quần.
- Chào bác sĩ Delaware.
- Chào giáo sư.
Ông ta cười và nói:
- Xin mời bác sĩ.
Nói rồi ông bước vào hành lang.
- Các quý bà của tôi thế nào rồi?
- Cả hai đang ngủ.
- Ơn Chúa. Khi tôi nói chuyện với Cindy chiều nay, cô ấy có vẻ rất mệt mỏi. Tôi đem mấy cốc cà phê này từ tầng dưới lên đây - Ông giơ một cốc cà phê lên - để tiếp thêm nhiên liệu cho cô ấy. Nhưng giấc ngủ mới chính là điều mà cô ấy cần thực sự.
Ông ta bắt đầu bước tới cánh cửa gỗ tếch. Tôi đi theo.
- Chúng tôi đã làm ông phải xa tổ ấm gia đình nhiều quá, thưa bác sĩ.
Tôi lắc đầu:
- Tôi chỉ đến đây một lúc rồi quay về thôi.
- Tôi không biết các bác sĩ tâm thần lại làm việc theo một lịch trình như thế đấy.
- Nếu tránh được thì chúng tôi không làm thế đâu.
Ông ta cười.
- Mà nếu Cindy ngủ sớm thế này nghĩa là con Cassie nhà tôi đã đủ khoẻ để cô ấy có thể thoải mái được rồi. Vậy là tốt.
- Cindy bảo với tôi rằng chị ấy không bao giờ rời khỏi Cassie.
- Đúng đấy.
- Chắc chị ấy phải vất vả lắm.
- Cực kỳ vất vả. Lúc đầu, tôi có đỡ đần cô ấy đôi chút, nhưng sau khi ở đây vài tuần và chứng kiến các bà mẹ khác nữa, tôi nhận ra rằng chuyện này là bình thường. Thực sự là bình thường đấy. Đó là một sự tự vệ thôi.
- Tự vệ lại cái gì mới được chứ?
- Những rắc rối.
- Cindy cũng đã nói với tôi về điều đó - Tôi nói - Ông đã thấy xung quanh xảy ra nhiều sai lầm trong điều trị y tế phải không?
- Với tư cách là một người cha, người mẹ hay với tư cách là con trai của ông Chuck Jones đây?
- Có gì khác chăng?


Ông ta khẽ cười, nụ cười khô khan.
- Chắc chắn là có đấy. Với tư cách là con trai của ông Chuck Jones, tôi nghĩ rằng nơi này là một thiên đường bệnh nhi và tôi cũng sẽ nói vậy trong buổi họp báo chiêu đãi sắp tới của bệnh viện nếu người ta hỏi tôi. Còn với tư cách làmột bậc cha mẹ, thì tôi đã chứng kiến nhiều thứ - đó là sai lầm không thể tránh khỏi của con người. Tôi sẽ đưa ra ví dụ - một ví dụ thực sự làm cho tôi thấy sợ hãi. Một, hai tháng trước đây, toàn bộ tầng sáu này kêu lên inh ỏi. Hình như có dứa bé nào đó đang được điều trị bệnh ung thư - được tiêm một thứ thuốc thử nghiệm, có thể là vào lúc đó thằng bé không còn hy vọng gì nữa rồi. Nhưng đó không phải là điều đáng nói. Có ai đó đã đọc nhầm một điểm thập phân, và thế là thằng bé đó phải nhận liều thuốc rất cao. Não nó bị phá huỷ, rơi vào tình trạng bất tỉnh nhân sự, toàn thân tê cứng. Toàn bộ các bậc cha mẹ trên tầng này đều nghe thấy tiếng loa kêu cấp cứu và thấy đội cấp cứu lao vào phòng. Họ cũng đã nghe thấy tiếng của bà mẹ thằng bé kêu cứu thất thanh, cả chúng tôi cũng nghe thấy. Lúc đó tôi đang đứng ở hành lang, và đúng là đã nghe thấy tiếng kêu thất thanh của bà mẹ ấy.
Ông ta nháy mắt:
- Thưa bác sĩ, một vài ngày sau, tôi đã gặp lại bà mẹ ấy. Khi đó, thằng bé vẫn còn thở. Nhìn chị ta như một nạn nhân trong trại tập trung. Vẻ mặt của người đã thất vọng hoàn toàn và bị phản bội? Tất cả chỉ vì một dấu chấm thập phân. Ngày nay chuyện đó có thể xảy ra ở bất kỳ đâu. Nếu đó là diện nhỏ thì mọi chuyện có thể được che đậy, hoặc không ai biết cả. Vì vậy, ông không thể kết tội các bậc cha mẹ khi họ tỏ ra cảnh giác, phải vậy không?
- Vâng - Tôi đáp - Có vẻ như ông không tin tưởng nhiều lắm vào nơi này.
- Ngược lại ấy chứ - Chip nói một cách sốt sắng - Trước khi quyết định để Cassie được điều trị tại đây, chúng tôi đã làm một cuộc nghiên cứu - kể cả nơi này là của bố đẻ tôi. Vì vậy, tôi biết đây là nơi tốt nhất trong thành phố này cho những đứa trẻ bị ốm. Nhưng khi có chuyện xảy ra với con cái của ông thì những số liệu thống kê chẳng còn ý nghĩa gì nữa, phải vậy không? Và nên nhớ, sai lầm của con người là không thể tránh khỏi.
Tôi kéo cánh cửa phòng của Cassie cho ông ta vào cùng với hai cốc cà phê.
Hình dáng kềnh càng của Vicki có thể được nhìn thấy qua cánh cửa kính của phòng tiếp tế phía sau trạm y tá trực của bà ta. Bà ta đang đặt thứ gì đó lên trên cái giá cao. Chúng tôi đi qua và tới phòng của Cassie.
Chip thò đầu vào trong, rồi rụt lại và nói:
- Vẫn còn ngủ.
Nhìn xuống hai cốc cà phê, ông ta đưa cho tôi một cốc.
- Không nên bỏ phí cốc cà phê chết tiệt này.
- Không, cảm ơn ông - Tôi đáp.
Ông ta khẽ cười:
- Ông không thích đúng không? Phải chăng cà phê thế này là luôn luôn tồi tệ?
- Luôn luôn đấy.


- Nhìn đây - tôi có loại Exxon Valdez - Một cái váng hình cầu vồng nổi lên trên bề mặt màu đen của cốc cà phê. Liếc nhìn, ông ta đưa một cốc khác lên môi - ừm - tệ quá. Nhưng tôi cần có nó mới có thể tỉnh táo được.
- Một ngày dài hay sao?
- Trái lại - quá ngắn. Dường như chúng ta càng già đi thì ngày càng ngắn lại, phải vậy không? Ngày ngắn đi đầy những công việc bận bịu. Rồi lại còn phải lái xe đi lại giữa nhà và nơi làm việc và tới đây nữa. Đường cao tốc hào nhoáng của chúng ta - tính nhân đạo ở điểm thấp nhất.
- Valley Hills luôn đồng nghĩa với đường cao tốc Ventura - Tôi nói - Thật tệ.
- Kinh khủng. Khi đi tìm mua nhà, chúng tôi đã có kiếm một chỗ gần nơi làm việc để tránh phải đi lại nhiều - Ông ta nhún vai - Những kế hoạch đã được vạch ra một cách tốt nhất. Đôi lúc tôi ngồi trên xe và tưởng tượng cuộc sống đúng như địa ngục trần gian.
Ông ta lại cười rồi uống ngụm cà phê.
Tôi nói:
- Tôi sẽ tự mình trải nghiệm cái địa ngục trần gian này trong vài ngày nữa - sẽ tới nhà ông để thăm bệnh cho con bé.
- Vâng, Cindy đã nói với tôi rồi. A đây rồi, bà y tá chuyên làm ca đêm... Xin chào bà Vicki. Bà lại làm ca đêm nữa à?
Tôi quay lại và nhìn thấy bà y tá đang tiến lại chỗ chúng tôi, miệng tươi cười, cái mũ nhấp nhô.
- Chào giáo sư Jones - Bà hít một hơi dài và sâu, như thể chuẩn bị thi cử tạ, rồi gật đầu chào tôi.
Chip đưa cho bà cốc cà phê còn nguyên.
- Mời bà, nếu bà không thích thì cứ việc quẳng đi hộ.
- Cảm ơn giáo sư.
Ông ta lại ngó đầu vào phòng Cassie.
- Những quý bà của tôi đã ngáy được bao lâu rồi?
- Cassie ngủ lúc 8 giờ. Cô Jones thì khoảng 9 giờ kém 15.
Ông ta nhìn đồng hồ:
- Bà có thể giúp tôi một việc được chăng, bà Vicki? Tôi muốn đi dạo với bác sĩ Delaware một chút, có thể chúng tôi sẽ kiếm thứ gì đó để ăn ở dưới đó. Xin bà hãy nhắn tin cho tôi khi mẹ con họ tỉnh giấc nhé?
- Nếu ông muốn, tôi sẽ xuống dưới lấy giúp ông thứ gì đó để ăn, thưa giáo sư.
- Không, xin cảm ơn. Tôi cần được vận động một chút - để giảm bớt căng thẳng ấy mà.
Vicki cười tỏ vẻ đồng cảm.
- Tất nhiên, vậy thì tôi sẽ cho ông biết ngay khi có ai đó tỉnh dậy.
Khi chúng tôi đi tới phía bên kia của những cánh cửa gỗ tếch, ông ta dừng lại và nói:
- Ông nghĩ gì về cách chúng ta đang bị đối đãi?
- Bị đối đãi theo nghĩa nào?
Ông ta tiếp tục bước đi:


- Theo nghĩa y học ấy, ở cái bệnh viện này. Không hề có sự đánh giá thực sự nào diễn ra cả, theo những gì tôi biết. Không ai thực sự kiểm tra xem tình trạng thể chất của Cassie ra sao. Không hẳn đây là những thứ mà tôi không ưa - nhưng ơn Chúa con bé không phải chịu đựng những cái mũi kim tiêm kinh khủng nữa rồi. Nhưng điều mà tôi đang nhận được chỉ là sự trấn an. Họ tay bắt mặt mừng với chúng tôi rồi cử bác sĩ tâm lý tới - không có gì mang tính chất cá nhân cả - và cứ để mặc cho những gì đang diễn ra với Cassie tự giảm xuống.
- Ông có thấy gì đó xúc phạm không?
- Không phải xúc phạm - mà hơi quá đấy. Như thể đó là tất cả những gì trong đầu của chúng ta. Ông tin tôi rồi phải không? Các bác sĩ ở đây chưa từng nhìn thấy những gì chúng tôi đã chứng kiến - đó là máu và những cơn co giật.
- Chính mắt ông đã nhìn thấy hết rồi phải không?
- Không hẳn là thấy hết. Cindy là người thức khuya. Tôi thường ngủ say lắm. Nhưng tôi cũng đã chứng kiến đủ rồi. Ông không thể tranh cãi gì với máu đâu. Vậy thì tại sao họ không làm gì đó tích cực hơn nữa đi nhỉ?
- Tôi không thể thay mặt bất kỳ ai để trả lời chất vấn này của ông - Tôi đáp - Nhưng tôi suy đoán rằng không ai thực sự biết phải làm cái gì và họ không muốn can thiệp quá mức cần thiết.
- Tôi cũng nghĩ vậy - Ông ta nói - Và theo những gì tôi được biết thì đó chính là cách tiếp cận đúng đắn. Bác sĩ Eves dường như rất thông minh. Có thể các triệu chứng của Cassie là - gọi là gì nhỉ - tự hạn chế bản thân.
- Tự hạn chế à.
- Tự hạn chế - Ông ta cười - Các bác sĩ tuyên truyền nhiều những lời hay ho hơn bất kỳ ai khác... Tôi cầu Chúa đó đúng là sự tự hạn chế. Nếu Cassie vẫn cứ khoẻ mạnh thì có thể đây sẽ là một bí ẩn không lời giải.
- Ông Chip này - Tôi lên tiếng - Tôi được bệnh viện triệu đến đây bởi vì ai cũng cho rằng vấn đề của Cassie thuộc về tâm lý. Công việc của tôi là giúp con bé chống lại sự sợ hãi và đau đớn. Lý do tôi muốn tới nhà thăm bệnh cho cháu là để xây dựng lòng tin giữa tôi và con bé để có thể giúp được nó khi cần thiết.
- Vâng, tôi hiểu - Ông ta đáp.
Ông ta nhìn trần nhà và gõ gõ bàn chân xuống sàn. Hai cô y tá đi qua. Mắt ông ta nhìn theo họ một đoạn xa, một cách bí mật.
- Tôi nghĩ điều khiến tôi khó chịu trong vịêc này là sự vô lý - Ông ta nói - Như thể chúng tôi đang trôi nổi lang thang trong biển cả mênh mông những sự kiện ngẫu nhiên. Cái gì làm con bé ốm mới được chứ?
Ông đấm tay vào tường.
Tôi cảm thấy bất kỳ điều gì mình nói ra đều làm cho tình hình trở nên tệ hơn, nhưng im lặng cũng không có gì tốt đẹp cả.
Cánh cửa cầu thang mở ra và cả hai chúng tôi cùng bước vào.
- Những bậc cha mẹ khốn nạn - Ông ta nói, tay nhấn mạnh nút "Xuống" - Ông có cách chấm dứt một ngày của mình thật dễ chịu.
- Đó là công việc của tôi mà.
- Thì đâu chỉ của riêng ông.
- Nhưng đó là lao động thực sự đấy.
Ông ta cười.
Tôi chỉ tay vào cốc cà phê trong tay ông ta:
- Chắc cốc đó đã nguội rồi. Chúng ta cùng xuống làm một cốc mới nhé?
Ông ta nghĩ trong giây lát:


- Vâng, tại sao lại không chứ?
Quán ăn tự phục vụ đã đóng cửa, vì vậy chúng tôi phải đi dọc hành lang qua khi Resident s Lounge, ở đó có một dãy máy bán hàng cạnh phòng thay đồ. Một người phụ nữ trẻ nhỏ nhắn trong bộ quần áo phẫu thuật đang bước đi cùng với hai nắm kẹo cứng. Chip và tôi mỗi người mua một cốc cà phê đen. Ông ta mua thêm một gói bánh sôcôla, bên trong lại có những gói nhỏ chứa hai thanh sôcôla.
Cách đó không xa là khu ngồi nghỉ: có những chiếc ghế nhựa màu cam được xếp đặt theo hình chữ L, cái bàn trắng thấp chất đầy giấy gói thức ăn và mấy tờ tạp chí cũ. Phòng thí nghiệm bệnh học cách đó không xa. Tôi nghĩ tới đứa con trai của ông giáo sư và tự hỏi liệu ông ấy có chạnh lòng khi ngồi ở đây. Nhưng ông ta lững thững đi tới ghế và ngồi xuống, miệng ngáp dài.
Mở cái gói ra, ông ta nhúng một thanh sôcôla vào cốc cà phê và nói:
- Đây là thức ăn bổ dưỡng đấy - Nói rồi ông ta liền ăn phần được nhúng ướt ấy.
Tôi ngồi vuông góc với ông ta và uống cà phê. Cà phê thật kinh khủng nhưng lại tạo được cảm giác dễ chịu một cách kỳ lạ - giống như phép màu.
- Vậy là - Ông ta nói và lại nhúng tiếp thanh nữa vào cà phê - tôi sẽ nói cho ông nghe về con gái tôi. Tâm trạng của nó tốt lắm, ăn khoẻ, ngủ khoẻ - con bé ngủ ngon trong vòng năm tuần. Đối với bất cứ người nào khác thì đây là một tin vui, phải không? Sau chuyện xảy ra với Chad, việc con bé ngủ say như thế luôn làm chúng tôi sợ hãi. Chúng tôi muốn nó thức dậy, thật khổ thân con bé. Nhưng điều làm tôi ngạc nhiên là sức bền bỉ của nó. Ông không thể tìm ra được thứ gì bé nhỏ như nó mà lại cứng cỏi đến vậy. Tôi cảm thấy thật vô lý, ngay cả việc bàn với bác sĩ tâm lý chuyện này. Nó là một đứa bé, vì Chúa, con bé có những loại nơ ron thần kinh nào chứ? Mặc dù vậy, tôi nghĩ con bé chắc phải căng thẳng thần kinh lắm sau tất cả những chuyện này. Phải chăng con bé sẽ phải điều trị về tâm lý suốt cả cuộc đời?
- Không đâu!
- Đã có người nào từng nghiên cứu về căn bệnh này chưa?
- Đã có rất nhiều nghiên cứu - Tôi đáp - những trẻ ốm kinh niên thường có xu hướng khoẻ mạnh hơn mong đợi của các nhà trị liệu tâm lý - nói chung là mọi người đều như thế.
- Có xu hướng ư?
- Phần lớn đều như thế.
Ông ta cười:


- Tôi biết. Đây không phải là chuyện thể chất. Thôi được, tôi cũng nên để cho bản thân mình được lạc quan một chút.
Ông ta căng thẳng, rồi lại thoải mái - một cách chủ tâm như thể ông từng theo học trường phái thiền nào đó. Ông ta để cho hai cánh tay buông thõng và duỗi dài hai chân, đầu ngửa ra sau và lấy hai tay xoa thái dương.
- Không biết ông có thấy đau đầu khi cả ngày cứ phải nghe, gật đầu, tỏ vẻ thông cảm và bảo cho người khác biết họ không có vấn đề gì?
- Đôi khi có đấy - Tôi đáp - Nhưng thường thì khi đã hiểu người khác rồi ông lại nhìn ra được cái rất con người trong họ.
- Ôi, đây đúng là nơi làm ông nhớ tới những chuyện đó đấy - "một tinh thần hiếm có không bao giờ định hướng nhân cách con người; nhưng anh, ơn Chúa, đúng là sẽ cho chúng tôi những lỗi lầm để biến chúng tôi thành con người đấy". Tôi biết câu này nghe có vẻ ngông cuồng nhưng thấy thật dễ chịu - một điều gì đó đúng cho mọi tình huống. Shakespeare có bao giờ phải nằm viện không nhỉ?
- Rất có thể. Ông ấy đã sống ở bệnh viện trong thời kỳ cao trào của bệnh dịch hạch, phải vậy không?
- Đúng, đúng - Ông ta đứng dậy và mở gói bánh thứ hai - Ông thật tài tình, tôi không thể nào nhớ nổi. Vậy ông hãy cho tôi thứ gì đó thật trong sạch, gọn ghẽ và thật lý thuyết bất cứ lúc nào nhé.
- Tôi chưa bao giờ nghĩ xã hội học là một ngành khoa học khó.
- Nói chung là không khó đâu. Toàn là những khuôn mẫu chuẩn mực và những giả thiết đo đạc được. Đó là những giấc mơ về sự chính xác,tôi luôn phải tự lừa dối mình đấy.
- Thế ông nghiên cứu về lĩnh vực gì? Quản trị công nghiệp hay phân tích hệ thống?
Ông ta lắc đầu.
- Không, đó là các lĩnh vực ứng dụng rồi. Tôi chỉ nghiên cứu về lý thuyết thôi, đặt ra mô hình hoạt động của các tổ chức và thể chế theo cấp độ tổ chức, những liên kết của các thành tố, các hiện tượng học. Đó là những thứ tách biệt với cuộc sống thực, nhưng tôi lại thấy rất thú vị, vì tôi đã được học ở một ngôi trường tách biệt.
- Đó là đâu vậy?
- Yale, khi còn là sinh viên đại học; đại học Connecticut khi học cao học. Tôi chưa bao giờ hoàn thành được luận án sau khi phát hiện ra việc dạy học thú vị hơn nhiều so với làm nghiên cứu.
Ông ta nhìn chằm chằm dọc theo hành lang tầng hầm vắng lặng, thỉnh thoảng mới có những bóng áo trắng lướt qua như đàn châu chấu ở xa xa.
- Đáng sợ thật - Ông ta nói.
- Sợ gì cơ?


- Nơi này ấy - Ông ta ngáp, mắt liếc đồng hồ - Tôi nghĩ sẽ lên để xem tình hình hai quý bà của tôi thế nào rồi. Cảm ơn ông đã dành thời gian nhé.
Cả hai chúng tôi cùng đứng dậy.
- Nếu ông muốn nói chuyện với tôi, đây là số điện thoại văn phòng tôi làm việc - Ông ta nói.
Chip đặt cốc cà phê xuống, thò tay vào túi quần sau và lôi ra cái ví màu bạc của Ấn Độ có nạm ngọc xanh. Tờ 20 đôla nằm bên ngoài, tiếp đến là thẻ tín dụng và giấy tờ các loại. Bỏ cả nắm thẻ ra, Chip đảo một lượt và tìm thấy tấm danh thiếp màu trắng. Đặt tấm danh thiếp lên bàn, ông lấy chiếc bút Mic màu xanh ra từ túi khác và viết mấy chữ rồi đưa cho tôi. Tấm danh thiếp có biểu tượng con hổ đang nhe nanh, xung quanh là chữ WVCC Tygers. Bên dưới là hàng chữ:
Cao đẳng cộng đồng Tây Valley
Khoa học xã hội
(818) 509 - 3476
Hai dòng kẻ được in ở cuối tấm danh thiếp. Ông ta điền vào đó những chữ đen đậm:
Chip Jones
Số máy lẻ: 2359
- Nếu tôi đang giảng bài, số máy lẻ này sẽ nối tới trung tâm nhắn tin. Nếu ông muốn tôi có mặt ở nhà khi ông tới thăm bệnh cho con bé, hãy thông báo cho tôi trước một ngày nhé - Ông ta dặn.
Tôi chưa kịp đáp thì những bước chân nhanh và nặng nề từ phía cuối hành lang vọng đến làm cả hai chúng tôi cùng quay lại. Một bóng người đang đi tới, dáng thể thao, áo măng tô đen bóng.
Cái bóng đó mặc áo măng tô da màu đen, quần màu xanh và có đội mũ. Phải chăng đó là một trong những tay cớm được thuê đang đi tuần các hành lang của bệnh viện?
Cái bóng tiến lại gần hơn. Một người đàn ông da đen có ria mép, khuôn mặt chữ điền và đôi mắt nhanh nhẹn. Tôi nhận ra phù hiệu của anh ta và biết ngay đó không phải là cớm đánh thuê của bệnh viện. Đó là một trung sỹ của Sở cảnh sát Los Angeles.
- Xin lỗi các quý ông - Anh ta nói rất nhẹ nhàng nhưng đủ để chúng tôi nghe thấy. Tấm phù hiệu anh ta đeo có ghi: Perkins.
Chip đáp:
- Có chuyện gì vậy?
Anh cảnh sát đọc tấm phù hiệu của tôi. Dường như tấm phù hiệu đã làm anh bối rối:
- Ông là bác sĩ sao?
Tôi gật đầu:
- Các quý ông đã ở ngoài hành lang này bao lâu rồi:
Chip đáp:


- Khoảng 5,10 phút. Có chuyện gì bất ổn chăng?
Cái nhìn của Perkins chuyển sang ngực Chip, để ý tới bộ râu quai nón, rồi chiếc hoa tai của ông ta.
- Ông cũng là bác sĩ sao?
- Ông ấy tới thăm con đang nằm ở đây - Tôi đáp.
- Ông có thẻ thăm thân nhân không, thưa ông?
Chip lôi một chiếc thẻ ra và giơ trước mặt Perkins.
Perkins nhai nhai hai bên má và nhìn trở lại tôi. Người anh ta toả ra thứ mùi của tiệm cắt tóc.
- Hai ông có nhìn thấy điều gì bất thường không?
- Là chuyện gì thế? - Chip hỏi.
- Là chuyện gì đó không bình thường ấy, thưa ông, hoặc người nào đó không thuộc bệnh viện này.
- Không thuộc bệnh viện này à - Chip đáp - chẳng hạn như ai đó khoẻ mạnh phải không?
Đôi mắt của Perkins nheo lại.
Tôi nói:
- Chúng tôi không thấy gì cả, thưa trung sỹ. Nơi đây rất yên tĩnh. Mà đã xảy ra chuyện gì vậy?
Perkins đáp:
- Cảm ơn.
Nói xong, anh ta bỏ đi. Tôi thấy anh ta đi chầm chậm lại một lát khi qua phòng thí nghiệm bệnh học.

Tôi và Chip đi cầu thang bộ tới đại sảnh. Một đám đông bác sĩ, y tá làm ca đêm tụ tập kín đầu phía Đông đang chen nhau tới những cánh cửa kính dẫn ra bên ngoài. Bên kia cánh cửa kính, bóng tối được cắt chéo nhau bởi những ánh đèn màu đỏ của cảnh sát. Có cả những ánh đèn trắng, bung ra như những ngôi sao nổ.
Chip nói:
- Có chuyện gì thế nhỉ?
Một y tá đứng cạnh đó không thèm quay đầu lại trả lời:
- Có ai đó đã bị tấn công trong bãi đậu xe.
- Bị tấn công ư? Ai tấn công mới được chứ?
Cô y tá quay đầu lại nhìn Chip. Khi nhận ra ông chỉ là một người dân bình thường, cô ta liền bỏ đi.
Tôi nhìn quanh xem có khuôn mặt nào quen không. Không hề có. Đã bao nhiêu năm tôi không qua lại nơi này rồi.
Một người gầy có mái tóc bạch kim cắt ngắn và bộ ria quăn màu trắng nói:
- Thế này là đủ rồi, tôi muốn về nhà ngay bây giờ.
Giọng ai đó như rên xiết.


Những tiếng thì thầm bay vọt qua đại sảnh. Tôi thấy một người mặc đồng phục ở phía bên kia cửa kính chặn cửa ra vào. Những tiếng nói chuyện bằng radio léo nhéo lọt vào trong. Bên ngoài người ta đi lại tấp nập. Một chiếc ôtô quét ánh đèn về phía cửa kính rồi quét đi chỗ khác và biến mất. Tôi đọc được dòng chữ "cấp cứu" trong ánh sáng lập loè. Nhưng không thấy xe cứu thương có đèn nháy và hú còi.
- Tại sao họi lại không đưa luôn cô ta vào bệnh viện nhỉ? - Người nào đó hỏi.
- Ai dám nói rằng đó là một phụ nữ chứ?
Giọng một phụ nữ lên tiếng:
- Thì vẫn luôn là các cô gái mà.
- Các cô có nghe thấy tiếng còi hú không? - Người khác đáp - Có lẽ đó không phải là một ca cấp cứu.
- Hoặc có thể - Người đàn ông tóc vàng nói thêm - đã quá muộn rồi.
Đám đông nhốn nháo như mặt hồ.
Có người nói:
- Tôi cố ra theo cửa sau nhưng họ đã chặn lại rồi. Thật chẳng khác nào đồ chết tiệt.
- Tôi nghe thấy người ta bảo nạn nhân là một bác sĩ.
- Là ai thế?
- Tôi chỉ nghe được thế thôi.
Tiếng rì rầm bàn tán, tiếng thì thầm nói chuyện lại tiếp tục rộ lên.
Chip nói:
- Hay thật.
Ông ta đột ngột quay lưng và đi về phía sau đám đông, trở lại bệnh viện. Trước khi tôi có thể nói điều gì đó, bóng ông ta đã biến mất.
5 phút sau, cánh cửa kính mở, đám đông nhào lên. Trung sỹ Perkins lách qua dòng người và giơ một bàn tay màu nâu lên. Anh ta trông giống như giáo viên trợ giảng trước một lớp học lộn xộn.
- Đề nghị mọi người trật tự một lát - Anh ta chờ đợi cho mọi người im lặng hết, cuối cùng căn phòng cũng tạm yên - một vụ tấn công đã xảy ra trong bãi đậu xe. Chúng tôi cần quý vị đi ra từng người một và trả lời một số câu hỏi:
- Tấn công như thế nào?
- Liệu anh ta có bị sao không?
- Ai bị tấn công?
- Phải chăng đó đúng là một bác sĩ?
- Sự việc xảy ra ở khu đậu xe nào?
Perkins lại liếc nhìn một lượt.
- Xin hãy tiến hành nhanh chóng, thưa các vị. Ai xong sẽ được về nhà.
Người đàn ông có bộ ria quăn màu trắng nói:
- Xin ngài sĩ quan nói cho chúng tôi biết chuyện gì đã xảy ra để chúng tôi còn tự bảo vệ mình?
Những tiếng xì xào ủng hộ.
Perkins nói:

thay đổi nội dung bởi: APOLONG, 02-04-2009 lúc 12:32 AM. Lý do: Gộp 2 bài gần nhau
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #9  
Cũ 02-04-2009, 12:31 AM
APOLONG's Avatar
APOLONG APOLONG is offline
Điều Hành Viên
 
Tham gia: 14/11/2008
Họ và tên: Apolong
Bài viết: 677
Xã: Tình khác
Gửi tin nhắn qua Yahoo chát tới APOLONG
Default Trả lời : [Truyện Kinh Dị] - Vũ Điệu Quỷ - [+15]

- Xin mọi người hãy bình tĩnh.
- Không, anh hãy bình tĩnh mới phải - Người đàn ông tóc vàng nói - Các anh chỉ biết phạt người ta khi người ta đi đứng bất cẩn, còn khi có chuyện xảy ra, các ca chỉ biết hỏi và rồi lặn mất tăm, để mặc chúng tôi phải dọn tất cả những thứ đổ nát.
Perkins không cử động, cũng không nói gì.
- Nào, ngài sỹ quan - Một người đàn ông khác, da đen, lưng hơi gù trong bộ đồng phục y tá nói - Một số người ở đây đang có mạng sống đấy. Hãy nói cho chúng tôi biết chuyện gì đã xảy ra đi.
- Đúng đấy.
Lỗ mũi của Perkins phập phồng. Anh ta nhìn chằm chằm vào đám đông lúc lâu, rồi mở cửa và ra ngoài.
Đám đông trong đại sảnh gầm lên giận dữ.
- Đồ chết tiệt!
- Tổ cha mấy thằng chuyên phạt bậy!
- Tổ cha chúng nó! Bệnh viện bắt chúng tôi phải vượt đường để đi làm và chúng ta lại bị bọn này phạt chỉ vì muốn đến sở đúng giờ.
Những tiếng reo hò tung hô. Không còn thấy ai nói gì đến chuyện xảy ra trong bãi đậu xe.
Cánh cửa mở ra. Một sỹ quan cảnh sát đi vào, trẻ, da trắng, nghiêm nghị và là phụ nữ:
- Này, tất cả mọi người - Chị ta nói - nếu các vị đi ra từng người, từng người một, viên sỹ quan này sẽ kiểm tra thẻ chứng minh của các vị rồi để các vị đi ngay.
- Ô hô - Người đàn ông da đen hét lên - Chào mừng quý vị đến tới San Quentin. Chuyện tiếp theo sẽ là? Khám xét khắp người đấy.
Có thêm một vài tiếng nói nữa hùa theo anh ta, nhưng đám đông bắt đầu di chuyển rồi im lặng hẳn.
Tôi phải mất 20 phút mới tới được cánh cửa. Một viên sỹ quan cảnh sát với cái bảng có ghim ghi tên tôi từ tấm phù hiệu tôi đeo, hỏi vài câu và ghi số bằng lái xe của tôi. Sáu chiếc xe cảnh sát đậu lộn xộn bên ngoài lối vào, cùng với chiếc Sedan không đánh hiệu. Giữa con đường đi bộ hơi dốc xuống tới nhà đậu xe có một đám đàn ông đang dừng lố nhố.
Tôi hỏi viên cảnh sát:
- Sự việc xảy ra tại đâu thế?
Anh ta ngoắc một ngón tay về phía nhà để xe.
- Tôi đậu xe tại đó.
Anh ta nhướng đôi lông mày lên.
- Ông tới nơi này lúc mấy giờ?
- Khoảng 9 giờ 30.
- Tối hả?
- Vâng.
- Ông đậu ở tầng mấy?
- Tầng hai.


Câu nói cuối cùng làm mắt anh ta sáng lên.
- Ông có nhìn thấy điều gì bất thường vào lúc đó không - có ai đi lang thang hay làm gì đó đáng ngờ không?
Nhớ lại cảm giác bị theo dõi khi rời khỏi xe, tôi nói:
- Không, nhưng tôi thấy ánh đèn không được đều đặn.
- Ông bảo không đều đặn là sao, thưa ông?
- Tức là chỗ tối, chỗ sáng. Một nửa không gian ở đây được chiếu sáng, còn nửa khác thì tối. Vậy thì nếu ai đó muốn trốn trong bóng tối thì đâu phải là chuyện khó.
Anh ta nhìn tôi, răng gõ canh cách. Nhìn lại phù hiệu của tôi lần nữa, anh ta nói:
- Ông có thể đi được rồi, thưa ông.
Tôi đi theo hành lang. Khi đi qua đám người lố nhố, tôi nhận ra một trong số những người đàn ông ở đây. Đó là Presley Huenengarth. Vị trưởng Ban an ninh bệnh viện đang hút thuốc và nhìn lên bầu trời như thể ngắm sao, mặc dù trời không có lấy ngôi sao nào. Một trong những người mặc đồng phục khác có đeo phù hiệu hình cái khiên trên ve áo đang nói chuyện. Huenengarth dường như không để ý tới xung quanh.
Mắt chúng tôi gặp nhau nhưng cái nhìn của anh ta không dừng lại lâu. Anh ta đang nhả khói thuốc lá qua lỗ mũi và nhìn ngó xung quanh. Với người mà hệ thống an ninh do mình phụ trách vừa mới thất bại một cách thảm hại, anh ta có vẻ còn đầy bình tĩnh.



++++++++++++++++++++++++++++




Chương 10

Báo chí ra ngày thứ Tư biến vụ tấn công đó thành một vụ giết người.
Nạn nhân bị cướp và bị đánh tới chết, chắc chắn là một bác sĩ. Một cái tên mà tôi không nhận ra: Laurence Ashmore. Ông ta bốn mươi lăm tuổi, mới làm tại Bệnh viện Nhi đồng miền Tây được một năm. Nạn nhân bị đánh từ phía sau, bị cướp mất ví, chìa khoá xe hơi và chìa khoá thẻ từ cho phép xe của nạn nhân được vào khu để xe của bác sĩ. Một phát ngôn viên của bệnh viện không tiết lộ tên nhấn mạnh rằng tất cả các mã vào cổng bãi đậu xe đều đã được thay đổi nhưng cũng thú nhận việc đi bộ vào bãi dễ như leo một bậc cầu thang.
Kẻ tấn công không rõ danh tính, không để lại manh mối nào.
Tôi đặt tờ báo xuống và nhìn qua những chiếc ngăn kéo bàn làm việc cho tới khi phát hiện ra một bảng phân công trực có kèm ảnh của các khoa trong bệnh viện. Nhưng bảng phân công này được làm từ năm năm trước, trước khi Ashmore tới đây.
Ngay sau 8 giờ, tôi trở lại bệnh viện. Khu đậu xe của bác sĩ đã được đóng kín bởi cánh cổng sắt, những chiếc xe trong đó đậu theo hình tròn trước cửa chính. Một tấm biển có ghi "Hết chỗ" được treo ở lối vào. Một người lính gác đưa cho tôi tờ giấy nhỏ hướng dẫn thủ tục để có được chìa khoá thẻ mới.
- Vậy lúc này tôi đậu xe ở đâu được?
Anh ta chỉ tay qua đường sang những bãi đậu xe ngoài trời han gỉ dành cho y tá và hộ lý. Tôi lùi lại, quay một vòng và phải xếp hàng đúng 15 phút. Mất thêm 10 phút nữa tôi mới tìm được nơi đậu. Ngó trước nhìn sau, tôi bước qua đại lộ, chạy nhanh tới cánh cửa trước. Hai lính gác đứng bên trong đại sảnh, nhưng không hề có dấu hiệu nào cho thấy có người vừa mới bị giết cách đó vài chục mét. Tôi biết, nơi này không còn lạ gì cảnh chết chóc nhưng một vụ mưu sát phải khiến người ta có phản ứng mạnh mới phải. Rồi tôi để ý tới những người tới, lui và chờ đợi. Không hề có sự lo lắng hay buồn phiền nào trên khuôn mặt đầy lạc quan của họ.
Tôi đi về phía cầu thang sau và phát hiện ra một danh sách trực mới ngay phía sau bàn thông tin. Ảnh của Laurence Ashmore nằm ở góc phía trái. Chuyên ngành độc học.
Nếu bức ảnh đó mới chụp thì ông ta trông rất trẻ so với độ tuổi 45. Người mảnh khảnh, mặt nghiêm nghị, tóc đen không thẳng, miệng rộng, đeo kính gọng sừng. Giống như Woody Allen mắc chứng khó tiêu, ông ta không phải là kiểu người dễ gây được khó khăn cho một kẻ tấn công. Tôi tự hỏi tại sao lại phải giết hại ông ta chỉ vì cái ví, rồi nhanh chóng nhận ra câu hỏi đó thật ngớ ngẩn.


Khi chuẩn bị vào thang máy lên tầng sáu, thì những âm thanh ở phía đầu kia của bệnh viện làm tôi chú ý. Rất nhiều áo trắng xuất hiện. Một đám người đang di chuyển nhanh về phía cầu thang chuyển bệnh nhân.
Chiếc xe chở một trẻ nhỏ đang được đẩy đi, một hộ lý đẩy, một người khác giữ ống truyền nước và chạy theo.
Một người phụ nữ mà tôi nhận ra là Stephanie. Rồi hai người mặc thường phục. Chip và Cindy.
Tôi đi theo và đuổi kịp khi họ tiến vào thang máy. Tôi cố gắng chen vào và lại gần chỗ Stephanie.
Cô nhận ra tôi và nhếch mép cười. Cindy đang nắm một tay của Cassie. Chị ta và Chip đều có vẻ mệt mỏi và không ai trong số họ nhìn lên.
Chúng tôi đi trong sự im lặng. Khi chúng tôi rời khỏi thang máy, Chip chìa tay ra. Tôi nắm lấy bàn tay ấy trong một giây.
Các hộ lý đẩy Cassie vào phòng bệnh nhân qua cánh cửa gỗ tếch. Trong vài giây, hình hài bất động của con bé được hạ thấp dần xuống giường, bình truyền nước được mắc vào máy đo giọt chảy và thanh chắn được dựng lên.
Bệnh án của Cassie đang ở chiếc xe đẩy. Stephanie cầm lấy và nói:
- Cảm ơn các anh.
Những hộ lý rời đi
Cindy và Chip lượn lờ bên cạnh chiếc giường. Đèn điện trong phòng đều tắt.
Khuôn mặt Cassie sưng vù, nhưng dường như đã được hút bớt nước - một chiếc vỏ được bơm căng. Cindy nắm tay con gái một lần nữa. Chip lắc đầu và choàng cánh tay quanh eo vợ.
Stephanie nói:
- Bác sĩ Bogner sẽ lại tới đây và cả vị bác sĩ người Thuỵ Điển nữa.
Những cái gật đầu yếu ớt.
Stephanie hất đầu. Hai người chúng tôi bước ra ngoài hành lang.
- Lại một vụ co giật nữa à? - Tôi hỏi.
- Vào lúc 4 giờ sáng. Chúng tôi đã ở phòng cấp cứu kể từ lúc đó, cố làm cho con bé tỉnh lại.
- Thế tình hình con bé ra sao rồi?


- Ổn định rồi. Mệt mỏi. Bác sĩ Bogner đang làm tất cả những gì có thể nhưng không đưa ra được chẩn đoán nào.
- Con bé có gặp nguy hiểm nào không?
- Không có nguy hiểm chết người nào, nhưng anh biết đấy, nếu liên tục bị chứng này sẽ gây hậu quả khôn lường. Và nếu càng ngày càng ác liệt thì chúng ta còn phải sẵn sàng cho những điều tồi tệ hơn - Cô lấy tay dụi mắt.
Tôi nói:
- Ai là vị bác sĩ Thụy Điển thế?
- Bác sĩ điện não đồ tên là Torgeson, đã cho xuất bản một công trình nghiên cứu về bệnh chậm chạp ở trẻ. Ông ta còn đang giảng bài tại một trường y.
Chúng tôi cùng bước tới bàn. Một y tá trẻ tóc đen đang ở đó. Stephanie viết vào bệnh án và nói với cô y tá:
- Hãy gọi ngay cho tôi nếu có thay đổi nào nhé.
- Vâng, thưa bác sĩ.
Tôi và Stephanie đi dọc hành lang một đoạn nữa.
- Vicki ở đâu nhỉ? - Tôi hỏi.
- Hy vọng là bà ấy đang ngủ ở nhà. Bà ấy xong ca vào lúc 7 giờ, nhưng lại xuống phòng cấp cứu để chào Cindy, mãi tận 7 giờ 30 mới về. Bà ấy muốn ở lại và làm thêm ca nữa, nhưng tôi đề nghị bà ấy về - Bà ấy có vẻ mệt mỏi lắm rồi.
- Thế bà ấy có chứng kiến những cơn co giật của con bé không?
Stephanie gật đầu.
- Cả người thư ký của đơn vị trực cũng chứng kiến. Cindy đã nhấn chuông, rồi chạy ra khỏi phòng kêu cứu.
- Thế Chip xuất hiện khi nào?
- Thì ngay sau khi chúng tôi ổn định được tình hình của Cassie. Cindy đã gọi điện về nhà cho anh ta và anh ta đến luôn. Tôi nghĩ lúc đó vào khoảng 4 giờ 30 thì phải.
- Tệ quá - Tôi nói.
- Ôi, chí ít thì chúng ta cũng đã khẳng định được là có những cơn co giật.
- Vậy là bây giờ mọi người đều biết Cindy không phải bị điên.
- Ý anh là sao?
- Hôm qua, Cindy nói với tôi rằng mọi người nghĩ chị ta bị điên.
- Chị ta nói như vậy thật sao?
- Thật chứ. Thì bởi vì chị ta là người duy nhất thấy Cassie bị ốm, rồi khi đến bệnh viện, con bé lại trở nên bình thường. Nên ai chẳng nghi ngờ sự trung thực của chị ta. Có thể là sự bất mãn nhưng cũng có thể chị ta biết rằng mình đang nghi ngờ nên mới nói ra để thử phản ứng của tôi. Biết đâu chị ta muốn chơi trò.
- Thế anh đã phản ứng ra sao?
- Bình tĩnh và khuyên giải chị ta, tôi hy vọng là chị ta cũng cảm thấy thế.
- Hừm - Stephanie nhăn trán - Vừa hôm trước chị ta còn lo lắng về việc bị người ta nghi ngờ thì đến hôm sau chúng ta đã có bằng chứng rất cụ thể để suy nghĩ rồi ư?


- Thời điểm sự việc xảy ra thật sự là oái oăm - Tôi đáp - Tối qua ngoài Cindy ở bên cạnh Cassie thì còn ai nữa không?
- Không có ai cả. Cũng không hẳn là luôn luôn như thế. Anh nghĩ rằng chị ta đã cho thứ gì đó vào thuốc?
- Hoặc là bóp mũi con bé. Hoặc là vặn cổ nó... Cả hai hành động này tôi đều tìm thấy khi tiến hành nghiên cứu các tài liệu ghi chép về bệnh Munchausen và tôi chắc chắn còn nhiều thủ đoạn ghê gớm hơn thế vẫn chưa được ghi chép.
- Đó là những thủ thuật mà một kỹ thuật viên hô hấp có thể biết... Khỉ thật. Vậy làm sao trong thời gian ngắn mà anh lại tìm ra được những thứ đó?
Cô lấy từ cổ mình ra một cái ống nghe. Đứng đối mặt với tường nhà, cô áp trán mình vào đó và nhắm mắt lại.
- Cô định cho con bé uống thứ gì đó phải không? - Tôi hỏi - Thuốc Dilatin hay Phenobarb?
- Tôi không thể. Bởi vì nếu con bé không có một rối loạn thật sự, thuốc chỉ gây hại thôi chứ ích gì.
- Liệu bọn họ có nghi ngờ nếu cô không dùng thuốc với con bé?
- Có thể... Tôi sẽ nói với họ sự thật. Kiểm tra não không đưa ra được kết luận nào cụ thể và tôi muốn tìm ra nguyên nhân chính xác những cơn co giật trước khi cho con bé uống thuốc. Bogner sẽ ủng hộ quan điểm này của tôi - Ông ta đang điên lên vì không tìm ra được nguyên nhân bệnh đấy.
Cánh cửa gỗ tếch mở ra, George Plumb vụt bước qua, cằm đi trước, áo phất theo sau. Ông ta giữ cửa cho một người đàn ông ở độ tuổi gần bảy mươi mặc bộ complê màu xanh dương kẻ sọc. Người đàn ông thấp hơn nhiều so với Plumb - khoảng 1mét 65 - to béo, đầu hói, đi nhanh và vòng kiềng, vẻ mặt ba phải dường như bị nhiều cú va đập: mũi bị gẫy, cằm không ngay ngắn, lông mày bạc trắng, mắt nhỏ ở đuôi đã có vết chân chim. Ông ta đeo cặp kính gọng thép, áo sơ-mi trắng cổ rộng và chiếc caravat lụa màu xanh. Đôi giày ông ta đi bóng loáng.
Hai người bọn họ đi thẳng về phía chúng tôi. Người đàn ông lùn có vẻ bận rộn ngay cả khi đứng yên.
- Chào bác sĩ Eves - Plumb nói - Và... phải chăng đây là bác sĩ Delaware?
Tôi gật đầu.
Người đàn ông lùn dường như không muốn được giới thiệu. Ông ta nhìn xung quanh khu phòng bệnh - giống y như cách Plumb đã làm hai ngày trước.
Plumb nói:
- Con bé ấy bây giờ ra sao rồi, bác sĩ Eves?


- Nó đang ngủ - Stephanie đáp, mắt vẫn tập trung vào người đàn ông lùn - Xin chào ngài Jones.
Cái đầu hói quay lại rất nhanh. Người đàn ông lùn nhìn cô, rồi lại nhìn tôi. Một cái nhìn rất chú tâm, như thể ông ta là người thợ may còn tôi là mảnh vải.
- Chính xác thì có chuyện gì đã xảy ra vậy? - Ông ta nói bằng giọng khá nặng.
Stephanie đáp:
- Cassie đã bị co giật vào buổi sáng nay.
- Trời ơi! - Người đàn ông lùn đấm một bàn tay vào bàn tay kia - Và đến nay vẫn chưa biết nguyên nhân phải không?
- Vẫn chưa, thưa ngài. Lần trước, khi con bé nhập viện, chúng tôi đã làm tất cả các xét nghiệm cần thiết nhưng nay chúng tôi phải làm lại và bác sĩ Bogner đã sắp xong. Ngoài ra còn có một giáo sư từ Thụy Điển tới nữa. Ông ta chuyên về động kinh trẻ em. Tuy nhiên, khi nói chuyện trên điện thoại, ông ta cảm thấy những gì chúng tôi đã làm là đúng đắn.
- Trời ơi! - Đôi mắt chân chim nhìn tôi. Một bàn tay thò ra:
- Tôi là Chuck Jones.
- Tôi là Delaware.
Chúng tôi bắt tay nhau rất nhanh. Bàn tay ông ta giống như lưỡi cưa gỗ. Tất cả mọi thứ thuộc về ông ta dườn như luôn luôn chuyển động.
Plumb nói:
- Bác sĩ Delaware là chuyên gia tâm lý, thưa ngài Chuck.
Jones hấp háy đôi mắt và nhìn tôi chằm chằm.
- Bác sĩ Delaware đã thăm bệnh cho Cassie - Stephanie nói - để giúp con bé đỡ sợ kim tiêm.
Jones ầm ừ không ra tiếng nào cụ thể, rồi cũng nói:
- Thôi, hãy để tôi xem chuyện gì đang xảy ra. Hãy tìm hiểu xem chuyện vớ vẩn này là gì.
Ông ta rảo bước về phía phòng của Cassie. Plumb theo sau ông ta giống như chú cún con. Khi họ đã ở bên trong phòng, tôi nói:
- Chuyện vớ vẩn ư?
- Liệu ai có thể muốn có một người ông như thế chứ?
- Chắc là ông ấy rất yêu chiếc hoa tai của Chip đấy.
- Một thứ mà ông ta không thích là các chuyên gia tâm lý. Sau khi khoa Tâm thần bị giải tán, khá nhiều người đã tìm tới ông ta, cố gắng thuyết phục để khôi phục lại khoa nào đó liên quan tới sức khoẻ tâm thần. Lẽ ra chúng tôi cũng đề nghị ông ấy duỵêt một khoản cho vay không lấy lãi nữa. Có lẽ Plumb đã chơi xỏ anh khi nói cho Jones biết anh làm nghề gì rồi đấy.
- Cái trò chơi cũ rích này á? Mà sao phải làm vậy chứ?
- Ai mà biết được. Tôi chỉ nói thế để anh cảnh giác thôi. Đám người này có những trò không bình thường đâu.
- Tôi đã ghi nhớ rồi - Tôi đáp.
Cô nhìn đồng hồ:
- Đến giờ khám bệnh rồi.
Chúng tôi rời phòng của con bé và đi về phía thang máy.
Cô hỏi:
- Vậy anh định sẽ làm gì, anh Alex?
Tôi định nói cho cô biết chuyện đã nhờ Milo nhúng tay vào vụ này. Nhưng rồi tôi lại quyết định không nói nữa.
- Theo tôi, cách duy nhất có vẻ thành công là bắt quả tang kẻ làm chuyện bẩn thỉu này hoặc đối mặt trực tiếp với hắn, buộc hắn phải thừa nhận.
- Đối mặt trực tiếp ư? Giống như là buộc tội chị ta ư?


Tôi gật đầu.
- Tôi không thể làm việc đó vào lúc này, phải vậy không? - Cô nói - bởi vì chị ta đã có nhân chứng chứng kiến cơn co giật của con bé rồi còn tôi thì lại đang mời chuyên gia tới. Có trời mới biết, có thể tôi đã hoàn toàn mất phương hướng. Có lẽ đúng là có một kiểu động kinh nào đó mà tôi không biết... Tôi đã nhận được một lá thư từ Rita sáng nay. Bà ấy gửi thư nhanh từ New York tới. - Bà ấy đang đi thăm các triển lãm nghệ thuật. Bà ấy hỏi xem có tiến triển gì trong đều trị cho con bé chưa. Tôi nghĩ có kẻ nào đó đã vượt mặt tôi và gọi thẳng đến bà ấy.
- Plumb ư?
- Hừm. Chúng tôi đã gặp nhau hôm qua và nói chung không khí không hề căng thẳng tí nào. Ông ta nói rằng ông ta đánh giá cao về sự nhiệt tình của tôi với bệnh viện. Ông ta còn cho tôi biết hiện nay tình hình tài chính rất khó khăn và sẽ còn tiếp tục khó khăn, và ám chỉ rằng nếu tôi không gây ra những rắc rồi thì vẫn có thể có được một công việc tốt hơn.
- Thế vào vị trí của Rita ư?
- Ông ta không nói cụ thể, nhưng ý ông ta là thế. Vậy nên có vẻ như ông ta đã gọi điện cho Rita và để bà ấy chống lại tôi... Dù sao, chuyện đó chẳng có gì quan trọng cả. Còn tôi sẽ làm gì với Cassie đây?
- Tại sao cô không đợi xem ông ta nói gì nhỉ. Nếu ông ta cảm thấy những cơn co giật ấy đã được ngụy tạo thì cô càng có cớ để đối đầu trực tiếp chứ sao.
- Đối đầu ư? Chắc tôi không thể đợi được rồi.
Khi chúng tôi tới gần phòng đợi, tôi đã đưa ra lời nhận xét rằng vụ giết Laurence Ashmore có rất ít tác động đối với vụ này.
- Ý anh là gì?
- Không thấy ai nói về chuyện này.
- Đúng thế. Anh nói đúng - thật kinh khủng phải không?
Một vài bước nữa, cô nói:
- Tôi thực sự không quen biết người này - Ashmore ấy. Ông ta luôn sống thu mình - kiểu tính cách không thích giao du với mọi người. Không bao giờ thấy ông ta đi dự các cuộc họp giao ban, không bao giờ trả lời các thư mời dự tiệc.
- Nếu không chịu giao du thì làm sao ông ta có người giới thiệu khách tới chỗ mình chứ?
- Ashmore không muốn có người giới thiệu khách tới chỗ mình đâu - ông ta không hề khám chữa bệnh, chỉ nghiên cứu thôi.
- Bằng chuột trong phòng thí nghiệm à?
- Chỉ những chú chuột thôi. Nhưng nghe nói ông ta khá thông minh - khá giỏi về ngành độc học đấy. Vì vậy khi Cassie bắt đầu nhập viện với chứng rối loạn hô hấp, tôi đã yêu cầu ông ta kiểm tra các phác đồ điều trị của nó.
- Cô nói cho ông ta biết lý do ư?
- Anh nghĩ rằng tôi đã nghi ngờ ư? Không. Tôi muốn ông ta tham gia một cách bình thường. Tôi chỉ bảo ông ta tìm xem có thứ gì đó bất thường không thôi. Ông ta rất miễn cưỡng, gần như là cáu bẳn không muốn làm, như thể bị ép buộc. Một hai ngày sau, tôi nhận được tin nhắn trên điện thoại nói rằng ông ta không tìm được gì. Và cũng trong lời nhắn, ông ta yêu cầu tôi không làm phiền ông ta nữa.
- Thế thì ông ta lấy gì để sống và làm thí nghiệm? Được trợ cấp à?


- Tôi nghĩ vậy.
- Tôi nghĩ bệnh viện này thậm chí cấm chuyện đó là đã khá rồi ấy chứ. Họ đâu muốn phải tốn thêm tiền đầu tư cho nghiên cứu.
- Tôi không biết nữa - Cô đáp - Có thể Ashmore tự trang trải.
Stephanie nhăn trán:
- Dù quan hệ xã hội của ông ta ra sao thì việc xảy ra với ông ta cũng thật đáng sợ. Đã từng có thời kỳ, dù trên đường phố có như thế nào đi nữa thì một người mặc bộ blu trắng hay đeo ống nghe trên cổ luôn luôn được an toàn. Bây giờ thì quy tắc đó đã bị phá vỡ. Đôi khi tôi có cảm íac mọi thứ trên thế gian này dường như đang sụp đổ.
Chúng tôi đi tới phòng kh ám. Phòng đợi đã chật kín người và ồn ào như chợ vỡ.
Stephanie nói:
- Tôi đã thấy ngán những chuyện xảy ra quanh đây rồi. Tôi chỉ muốn nghỉ ở nhà cho đỡ mệt.
- Tại sao cô không làm thế?
- Thì còn đang phải trả nợ.
Mấy người phụ nữ vẫy tay về phía Stephanie, cô cũng chào đáp lễ. Chúng tôi qua cánh cửa tới khu y tế và đi về phía văn phòng của cô. Một y tá nói:
- Xin chào bác sĩ Eves.
Stephanie cười. Một y tá khác đến và đưa cho cô tập bệnh án.
Cô nói:
- Chúc mừng Giáng sinh, Joyce!
Cô y tá cười và lui ra.
- Thôi, tạm biệt cô nhé - Tôi chào.
- Vâng, cảm ơn anh - À, tôi đã biết một số thông tin khác về Vicki. Theo một y tá mà tôi từng làm việc với tại tầng năm thì bà Vicki có hoàn cảnh gia đình khó khăn lắm. Ông chồng nghiện rượu thường đánh đập bà ấy. Vì vậy, bà ấy có vẻ hơi căng thẳng - chán ghét đàn ông. Bà ấy vẫn còn làm phiền anh phải không?
- Không. Thực ra chúng tôi đã có cuộc gặp riêng với nhau và thống nhất hoà hoãn tạm thời.
- Tốt.
- Bà ấy có thể ghét đàn ông, nhưng không ghét Chip - Tôi nói.
- Chip không phải là người đàn ông bình thường. Anh ta là con trai của ông chủ.
- Đấy nhé - Tôi nói - Thế là đã có lời giải thích về việc bà ta căm thù tôi rồi. Rất có thể bà ấy đã tới bác sĩ để được giúp đỡ nhưng lại bị thất vọng. Tất nhiên, căng thẳng gia đình triền miên có thể dẫn bà ta đi theo những hướng khác - trở thành người hùng trong công việc để củng cố thêm lòng tự trọng của mình. Không biết bà ấy giải quyết vụ co giật ra sao?
- Tốt lắm. Tôi có thể gọi đó là hành động anh hùng. Bà ấy đã làm cho Cindy bình tĩnh trở lại, kiểm tra kỹ Cassie để đảm bảo con bé ổn thì mới gọi điện sang cho tôi. Bà ấy thật sự là người bình tĩnh, mọi thao tác đều rất chính xác.


- Đúng là người luôn làm được theo sách giáo khoa.
- Nhưng giống như anh từng nói, làm sao bà ấy có thể tham gia nhiệt tình được khi mà ở nhà mình đang xảy ra khủng hoảng chứ?
- Nhưng cuộc khủng hoảng riêng của bà ấy thì không. Nói một cách công bằng thì không hề. Tôi không nói rằng tôi thực sự nghi ngờ bà ấy. Tôi chỉ biết gia đình bà ấy có chuyện không vui, bà ấy thường xuyên tới đây và làm rất tốt công việc của mình. Có lẽ vì bà ấy hay làm tôi bực mình nên tôi mới để ý nhiều hơn thôi.
- Anh nói hay nhỉ?
- Thì cô biết rồi đấy.
- Tôi luôn luôn giữ lời hứa của mình - Cô nhìn đồng hồ - Tôi phải khám bệnh vào buổi sáng này, rồi tới Century City để đón Torgeson này, rồi phải đảm bảo rằng không bị mắc kẹt trong bãi đậu xe này. Mà họ cho anh để xe ở chỗ nào thế?
- Bên kia đường, giống như những người khác thôi.
- Ôi, tôi sơ ý quá.
- Thôi - Tôi nói, giả vờ giận dỗi - Một số người trong chúng ta là những vĩ nhân của thế giới còn một số khác phải đậu xe ở bên kia đường đấy thôi.
- Trên điện thoại nghe giọng ông ta rất lạnh lùng - Stephanie nói - nhưng ông ta đúng là tay ác ôn đấy - đang nằm trong Uỷ ban bầu chọn giải Nobel đấy.
- Ôi chao.
- Nào, thử xem liệu chúng ta có thể làm cho gã bị thất vọng không.

Tôi gọi cho Milo từ buồng điện thoại công cộng và để lại lời nhắn cho anh: "Vicki Bottomley có người chồng nghiện rượu và có thể đã đánh đập bà ta khá tàn tệ. Chẳng biết chuyện này có liên quan gì không nhưng xin anh kiểm tra hộ hồ sơ về gia đình họ có xảy ra chuyện gì bạo lực không và nếu có thì hãy cho tôi biết cụ thể về ngày tháng vụ việc xảy ra nhé".
Một y tá mẫu mực như sách giáo khoa.
Căn bệnh Munchausen thế thân y như sách giáo khoa.
Những cái chết trong khi ngủ y như sách giáo khoa.
Cái chết đã được cố bác sĩ Ashmore đánh giá.
Người bác sĩ này đã không được nhìn thấy các bệnh nhân.
Chỉ là sự trùng hợp kinh khủng, không hề có gì để nghi ngờ. Chỉ cần làm việc lâu ở bệnh viện nào đó người tôi cũng sẽ thấy đầy rẫy những thứ thật kinh tởm. Nhưng không còn biết phải bắt đầu từ đâu, tôi liền quyết định tự mình xem xét kỹ hơn bệnh án của Chad Jones.
Phòng hồ sơ bệnh án vẫn được đặt ở tầng hầm. Tôi phải xếp hàng chờ đợi sau hai người thư ký mang phiếu yêu cầu và một bác sĩ nội trú có vác theo máy tính xách tay, cuối cùng người ta thông báo cho tôi biết rằng hồ sơ của bệnh nhân đã chết được đặt ở tầng hầm phía dưới nữa ở nơi gọi là SPI - tình trạng không còn sự sống. Có vẻ như đây là sản phẩm mà quân đội tạo ra.


Trên bức tường ngay bên ngoài cầu thang của tầng hầm này có một tấm bản đồ. Trên tấm bản đồ có những mũi tên chỉ "bạn đang ở đây" ở dưới góc bên tay trái. Phần còn lại là những hành lang. Đường hành lang được lát gạch trắng và trải thảm màu xám có in hình các tam giác màu đen và tím. Những cánh cửa cũng màu xám, tấm ghi tên thì màu đỏ. Hành lang được chiếu sáng bằng đèn huỳnh quang và có mùi chua của phòng thí nghiệm hoá học.
SPI nằm giữa mạng lưới các hành lang, giốn như cái hộp nhỏ, rất khó xác định từ không gian hai chiều trên bản đồ.
Tôi bắt đầu bước đi và đọc biển hiệu trên các cánh cửa. Phòng nồi hơi, khu chứa đồ. Một loạt các cánh cửa có ghi là Hậu cần và nhiều cánh cửa khác không ghi gì cả.
Hành lang ngoặt phải.
Chụp hoá quang phổ. Hồ sơ X-quang. Hồ sơ mẫu vật. Một tấm biển to ghi: Nhà xác: Không được vào nếu không được phép.
Tôi dừng lại. Không ngửi thấy mùi formalin, không có dấu hiệu nào về sự chết chóc, chỉ có sự im lìm và mùi acetic cùng với không khí lành lạnh có lẽ là do nhiệt độ thấp gây ra.
Tôi hình dung tấm bản đồ trong đầu. Nếu tôi nhớ chính xác thì rẽ phải một lần nữa, rồi rẽ trái và đi một đoạn ngắn mới tới được SPI. Tôi lại bước đi và nhận ra rằng từ khi xuống tới đây tôi chưa hề gặp người nào khác. Không khí trở nên lạnh lẽo hơn.
Tôi rảo bước, chút nữa thành chạy thì một cánh cửa bên tường phải đột nhiên bật mở, nếu không tránh nhanh thì nó đã đập vào tôi.
Tường bên phải hoàn toàn không có biểu hiện gì hết. Mấy người đàn ông mặc bộ đồ bảo hộ lao động xám xuất hiện, tay ôm máy tính, nhưng là những chiếc máy tính rất lớn. Họ hằm hằm bỏ đi. Rồi hai người công nhân nữa xuất hiện. Cuối cùng là một người đàn ông, tay áo xắn lên cao, cơ bắp cuồn cuộn đang ôm chiếc máy in laze. Một tấm thẻ tra cứu bằng bàn tay dán vào chiếc máy in. Tấm thẻ ghi: L.Ashmore, M.D.
Tôi bước qua cánh cửa ấy và phát hiện ra Presley Huenengarth đang đứng ở bậu cửa, tay cầm nắm giấy in. Phía sau anh ta là những bức tường màu be không trang trí, đồ đạc bằng kim loại màu đen, vài cái máy tính trong tình trạng không được nối mạng.
Một chiếc áo choàng trắng treo trên giá là dấu hiệu duy nhất chứng tỏ có cái gì đó là sự sống chứ không phải những con toán bất động đã được trông thấy ở đây.
Huenengarth nhìn tôi chằm chằm.
Tôi nói:
- Tôi là bác sĩ Delaware. Chúng ta đã gặp nhau hai ngày trước. Tại Bệnh viện Nhi đồng miền Tây ấy.
Anh ta gật đầu rất nhẹ.
- Chuyện về bác sĩ Ashmore thật tồi tệ - Tôi nói.
Anh ta lại gật đầu rồi lùi vào trong phòng một bước và đóng cửa.
Tôi nhìn dọc theo hành lang, nhìn những người đàn ông làm công tác bảo dưỡng mang đồ đạc của Ashmore và nghĩ tới những kẻ đào trộm mồ. Bỗng nhiên, một căn phòng đầy ắp những hồ sơ khám bệnh tử thi lại có vẻ thật ấm áp và mời gọi.

[ Tự động gộp bài ]

+++++++++++++++++++++++++


Chương 11

SPI là một phòng hẹp và dài đầy những giá kim loại xếp thành hàng dài từ sàn tới trần cùng những lối đi vừa cho một người. Những cái giá xếp đầy hồ sơ bệnh án. Mỗi hồ sơ bệnh án đều mang một dải đen. Hàng trăm dải đen liên tiếp nhau tạo thành những dòng màu đen dày khoảng 3cm lượn sóng khiến người ta có cảm giác những hồ sơ bị cắt ở giữa. Đường vào căn phòng bị chắn bởi cái bàn cao ngang eo. Phía sau cái bàn là một phụ nữ châu Á khoảng bốn mươi tuổi, mắt đang chăm chú đọc tờ báo lá cải tiếng châu Á. Những con chữ tròn - có lẽ là tiếng Thái hay tiếng Lào gì đó. Khi thấy tôi, chị ta liền đặt tờ báo xuống và nở nụ cười như thể tôi đang đem tới tin tốt lành.
Tôi xin phép được xem hồ sơ bệnh án của Charles Lyman Jones Đệ tứ. Cái tên đó dường như chẳng có gì nghĩa gì với chị ta. Chị ta với tay xuốn dưới ngăn bàn và chìa ra một tấm thẻ 3x4cm có ghi: Thẻ yêu cầu SPI. Tôi liền điền đầy đủ những thông tin cần thiết và đưa cho chị ta. Chị ta nhận lấy và cười:
- Jones à.
Nói rồi chị đi vào trong các hàng hồ sơ.
Chị ta tìm kiếm một lát, đi đi lại lại rồi lôi ra mấy tập hồ sơ, nhấc các dải vải và xem phiếu đi xem. Khi trở lại, chị ta không mang theo thứ gì trên tay.
- Không có ở đây, thưa bác sĩ.
- Chị có biết nó nằm ở đâu không?
Chị ta lắc đầu.
- Có lẽ ai đó đã lấy đi rồi.
- Chắc chắn là vậy, thưa bác sĩ.
- Hừm - Tôi thốt lên và tự nhủ không biết ai lại quan tâm tới hồ sơ bệnh án của một đứa bé hai tháng tuổi đã chết.
- Hồ sơ bệnh án này rất quan trọng - để nghiên cứu. Không biết có cách nào để tôi liên lạc được với người đã lấy nó đi không nhỉ?
Chị ta nghĩ ngợi một lúc rồi mỉm cười và lôi thứ gì đó ra từ ngăn kéo tủ. Đó là bao thuốc xì gà của EI Producto. Bên trong là mấy chồng mẫu kê khai yêu cầu SPI được gắn bằng kẹp. Có năm chồng. Chị ta bày tất cả lên mặt bàn. Những tấm thẻ trên cùng đều mang chữ ký của các nhà bệnh học. Tôi đọc tên các bệnh nhân, không thấy có sự sắp xếp theo vần chữ cái hay theo hệ thống phân loại nào cả.
Chị ta lại cười và nói:
- Xin ông cứ thử tìm xem.
Nói rồi chị ta lại dán mắt vào tờ báo.

thay đổi nội dung bởi: APOLONG, 02-04-2009 lúc 12:37 AM. Lý do: Gộp 2 bài gần nhau
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #10  
Cũ 02-04-2009, 12:38 AM
APOLONG's Avatar
APOLONG APOLONG is offline
Điều Hành Viên
 
Tham gia: 14/11/2008
Họ và tên: Apolong
Bài viết: 677
Xã: Tình khác
Gửi tin nhắn qua Yahoo chát tới APOLONG
Default Trả lời : [Truyện Kinh Dị] - Vũ Điệu Quỷ - [+15]

Tôi tháo bỏ cái kẹp khỏi chồng thẻ và lục qua tất cả các mẫu yêu cầu. Chẳng bao lâu tôi phát hiện ra rằng nơi đây không hề tồn tại một hệ thống nào cả. Các tập phiếu được xếp theo ngày yêu cầu, mỗi chồng là một tháng, mỗi phiếu xếp theo thứ tự ngày. Có tất cả năm chồng phiếu bởi vì lúc này là tháng Năm.
Vậy là không thể làm tắt được, phải kiểm tra từng phiếu một. Và nếu hồ sơ bệnh án của Chad được lấy ra từ trước tháng Một thì phiếu yêu cầu đã bị bỏ đi khỏi đây rồi cũng nên.
Tôi bắt đầu đọc tên của những đứa trẻ xấu số, thấy rằng chúng chỉ là sự sắp xếp các chữ cái một cách bừa bãi.
Một phút sau, tôi đã có được thứ mình muốn tại chồng của tháng Hai. Một tấm thẻ có ghi ngày 14 tháng Hai đã được ai đó chữ rất xấu ký. Tôi xem xét kỹ từng nét chữ và cuối cùng đã luận ra tên của người đó là Herbert D.Kent Herbert, hay là Dr.Kent Herbert.
Ngoài chữ ký, ngày tháng, và số điện thoại nhánh của bệnh viện ra, dải giấy đó không còn là chữ gì khác; các thông tin như vị trí công tác, chức danh, khoa, lý do yêu cầu đều không được điền vào đầy đủ. Tôi sao lại phần điện thoại nhánh và cảm ơn người phụ nữ ngồi phía sau chiếc bàn.
- Thế là được rồi sao? - Chị ta hỏi.
- Chị có biết người này là ai không?
Chị ta nhìn vào tờ khai.
- Hebert à... Không. Tôi chỉ mới làm việc ở đây được một tháng - Nói rồi chị ta lại cười - Bệnh viện này tốt lắm - Chị ta vui vẻ nói.
Tôi bắt đầu tự hỏi không hiểu chị ta có biết mình đang làm gì ở đây không.
- Chị có danh bạ điện thoại của bệnh viện không?
Vẻ mặt chị ta đầy bối rối.
- Cuốn sách ghi các số điện thoại ấy... Cuốn có màu vàng ấy?
- À - Chị ta cúi xuống và lôi ra một cuốn từ phía dưới chiếc bàn.
Trong danh bạ điện thoại của bệnh viện không có ai tên là Herbert ạ. Phần sau là danh sách những người không phải nhân viên bệnh viện, tôi tìm thấy một cái tên Ronald Herbert với chức danh trợ lý giám đốc dịch vụ lương thực. Tuy nhiên, phần điện thoại nhánh lại không giống như ghi ở dải giấy, mà chẳng lẽ một người làm công tác phục vụ ăn uống lại quan tâm tới trường hợp đột tử của trẻ sơ sinh?
Tôi cảm ơn chị ta rồi ra về. Vừa kịp lúc cánh cửa đóng, chị ta nói với theo:
- Bác sĩ, ông lại nhà.


Tôi lại men theo hành lang đường hầm, qua văn phòng của Laurence Ashmore. Cánh cửa vẫn đóng. Khi tôi dừng lại nghe ngóng thì chợt như nghe thấy tiếng chuyển động ở phía bên kia.
Tôi tiếp tục đi, mắt nhìn quanh để tìm buồng điện thoại. Cuối cùng, trời cũng không phụ công, tôi đã tìm được một buồng điện thoại ngay cạnh cầu thang máy. Tôi chưa kịp tới thì cánh cửa thang máy bật mở. Presley Huenengarth hiện ra, đứng đó và nhìn tôi chằm chằm. Lưỡng lự một lát rồi anh ta cũng bước ra. Quay lưng lại phía tôi, Huenengarth rút từ trong túi ra một bao Winstons và loay hoay bóc.
Cánh cửa cầu thang máy bắt đầu đóng lại. Tôi dùng tay chặn lại và bước vào. Điều cuối cùng tôi nhìn thấy trước khi cánh cửa đóng là cái nhìn chằm chằm lạnh lùng của nhân viên an ninh Huenengarth bị che phủ bởi đám khói thuốc.
Sau khi lên tới tầng hai, tôi sử dụng máy điện thoại cạnh phòng xạ trị để quay số nhánh tới D. Kent Herbert. Nhân viên tổng đài của bệnh viện trả lời máy.
- Bệnh viện Nhi đồng miền Tây đây.
- Tôi đang muốn gọi tới số nhánh 2506.
- Xin ông chờ một lát để tôi nối máy- Một loạt tiếng nhấn phím vang lên và rồi có tiếng đáp - Xin lỗi ông, số nhánh đó đã bị ngắt rồi ạ.
- Bị ngắt từ khi nào vậy?
- Tôi không rõ thưa ông.
- Anh có biết số nhánh đó là của ai không?
- Không thưa ông. Thế ông đang muốn kiếm ai vậy?
- D. Kent Herbert.
- Phải chăng đó là một bác sĩ?
- Tôi cũng không rõ.
Không có tiếng đáp lại trong giây lát, rồi:
- Vậy ông chờ một chút... Người có tên là Herbert duy nhất mà tôi có trong danh sách ở đây là ông Ronald Herbert, làm tại ban dịch vụ ăn uống. Ông có muốn tôi nối máy tới chỗ ông ấy không?
- Có chứ.
Năm tiếng chuông vang lên.
- Ron Herbert đây - Giọng nói khô khan.
- Chào ông Herbert, đây là phòng Hồ sơ bệnh án, muốn gọi ông để hỏi về bệnh án mà ông đã mượn.
- Ông nói sao?
- Hồ sơ bệnh án mà ông đã mượn vào tháng Hai ấy? Từ phòng hồ sơ ở SPI?
- Chắc là ông bạn nhầm với ai đó rồi. Đây là quán ăn tự phục vụ.
- Vậy là ông không mượn cuốn bệnh án SPI nào vào ngày 14 tháng Hai năm nay hay sao?
Trong máy có tiếng cười rất to.
- Buồn cười thật, tại sao tôi lại làm cái chuyện ngớ ngẩn ấy chứ?


- Vậy xin cảm ơn ông.
- Không sao. Mong ông tìm được điều ông muốn.
Tôi gác máy, đi cầu thang bộ xuống tầng trệt và hoà vào dòng người đang đứng lố nhố ở hành lang. Lách qua đám người đang chen chúc, tôi đi tới bàn thông tin và sau khi phát hiện ra một cuốn danh bạ điện thoại cạnh bàn tay của người thư ký tôi liền cầm lấy.
Người thư ký, một người phụ nữ da đen có mái tóc nhuộm vàng, đang trả lời các câu hỏi của người đàn ông nói tiếng Tây Ban Nha bằng tiếng Anh. Cả hai người bọn họ đều mệt mỏi và không khí đầy vẻ căng thẳng. Người thư ký thấy cuốn danh bạ trong tay tôi thì liền liếc mắt nhìn. Người đàn ông cũng nhìn theo. Hàng người phía sau anh ta nhốn nháo và rung lên như một con rắn khổng lồ.
- Ông không được lấy cái đó - Người thư ký nói.
Tôi cười, chỉ vào tấm phù hiệu và nói:
- Tôi chỉ muốn mượn một phút thôi.
Người thư ký trừng mắt nói:
- Chỉ đúng một phút thôi đấy nhé.
Tôi di chuyển về phía đầu kia của chiếc bàn và lật cuốn sách, mở ra trang đầu tiên, mắt đảo nhanh cùng với ngón tay trỏ xuống hàng những con số ở bên phải của mỗi trang, sẵn sàng tra tới hàng trăm con số nhánh cho tới khi tìm thấy số 2506. Nhưng chỉ vài trang tôi đã gặp được số cần tìm:
ASHMORE, L.W (TOX.) 2506.
Tôi trả lại cuốn danh bạ và cảm ơn người thư ký.
Chị ta lại liếc nhìn tôi, đưa tay giật lấy cuốn danh bạ và đặt ra xa.
- Mới được có nửa phút - Tôi đùa - Vậy tôi có được nhận lại phần thừa không đấy?
Khi nhìn thấy khuôn mặt méo xệch của những người đứng phía sau, tôi mới thấy ân hận vì câu bông đùa của mình.

Tôi đi cầu thang lên tới chỗ của Cassie, nhưng trên cửa phòng con bé có một tấm biển ghi "Xin đừng làm phiền"; người y tá trực nói với tôi rằng cả con bé và Cindy đang ngủ.
Trên đường ra khỏi bệnh viện, đột nhiên có tiếng người gọi tên tôi. Nhìn lên, tôi thấy một người đàn ông to cao, mép có ria đang tiến lại từ cửa chính. Người này xấp xỉ bốn mươi, mặc áo choàng trắng, kính không khung, quần áo bên trong kiểu đồng phục trường đại học. Ria mép là dấu huyền đen to như con sâu róm đậu dưới mũi. Có lẽ toàn bộ con người này nổi nhất ở điểm đó.
Anh ta đang vẫy tay gọi tôi.


- Vậy xin cảm ơn ông.
- Không sao. Mong ông tìm được điều ông muốn.
Tôi gác máy, đi cầu thang bộ xuống tầng trệt và hoà vào dòng người đang đứng lố nhố ở hành lang. Lách qua đám người đang chen chúc, tôi đi tới bàn thông tin và sau khi phát hiện ra một cuốn danh bạ điện thoại cạnh bàn tay của người thư ký tôi liền cầm lấy.
Người thư ký, một người phụ nữ da đen có mái tóc nhuộm vàng, đang trả lời các câu hỏi của người đàn ông nói tiếng Tây Ban Nha bằng tiếng Anh. Cả hai người bọn họ đều mệt mỏi và không khí đầy vẻ căng thẳng. Người thư ký thấy cuốn danh bạ trong tay tôi thì liền liếc mắt nhìn. Người đàn ông cũng nhìn theo. Hàng người phía sau anh ta nhốn nháo và rung lên như một con rắn khổng lồ.
- Ông không được lấy cái đó - Người thư ký nói.
Tôi cười, chỉ vào tấm phù hiệu và nói:
- Tôi chỉ muốn mượn một phút thôi.
Người thư ký trừng mắt nói:
- Chỉ đúng một phút thôi đấy nhé.
Tôi di chuyển về phía đầu kia của chiếc bàn và lật cuốn sách, mở ra trang đầu tiên, mắt đảo nhanh cùng với ngón tay trỏ xuống hàng những con số ở bên phải của mỗi trang, sẵn sàng tra tới hàng trăm con số nhánh cho tới khi tìm thấy số 2506. Nhưng chỉ vài trang tôi đã gặp được số cần tìm:
ASHMORE, L.W (TOX.) 2506.
Tôi trả lại cuốn danh bạ và cảm ơn người thư ký.
Chị ta lại liếc nhìn tôi, đưa tay giật lấy cuốn danh bạ và đặt ra xa.
- Mới được có nửa phút - Tôi đùa - Vậy tôi có được nhận lại phần thừa không đấy?
Khi nhìn thấy khuôn mặt méo xệch của những người đứng phía sau, tôi mới thấy ân hận vì câu bông đùa của mình.

Tôi đi cầu thang lên tới chỗ của Cassie, nhưng trên cửa phòng con bé có một tấm biển ghi "Xin đừng làm phiền"; người y tá trực nói với tôi rằng cả con bé và Cindy đang ngủ.
Trên đường ra khỏi bệnh viện, đột nhiên có tiếng người gọi tên tôi. Nhìn lên, tôi thấy một người đàn ông to cao, mép có ria đang tiến lại từ cửa chính. Người này xấp xỉ bốn mươi, mặc áo choàng trắng, kính không khung, quần áo bên trong kiểu đồng phục trường đại học. Ria mép là dấu huyền đen to như con sâu róm đậu dưới mũi. Có lẽ toàn bộ con người này nổi nhất ở điểm đó.
Anh ta đang vẫy tay gọi tôi.


Tôi lục lọi trong trí nhớ và rồi cũng nhớ ra tên anh ta.
Đó là Dan Kornblatt. Chuyên gia tim. Cựu bác sĩ nội trú trưởng của trường Đại học California San Francisco. Năm đầu tiên tại bệnh viện của anh ta cũng là năm cuối cùng của tôi. Mối quan hệ của chúng tôi hồi đó chỉ giới hạn ở những cuộc hội chẩn và những câu chuyện phiếm về Bay Area - Tôi đã từng theo một chương trình học bổng tại Langley Porter trong khi Kornblatt rất tâm đắc với lý luận của mình rằng tại phía nam Carmel không hề có văn minh. Tôi nhớ tới anh ta như một người hay lý luận dài dòng, kém khéo léo với các bậc cha mẹ, nhưng lại nhẹ nhàng với những bệnh nhân trẻ. Đi cùng anh ta lúc này còn có thêm bốn bác sĩ nữa, hai nam, hai nữ, tất cả đều còn rất trẻ. Cả năm người bọn họ đi rất nhanh, tay vung vảy - thật khoẻ mạnh và tỏ ra có mục đích. Khi họ tới gần, tôi nhận thấy mái tóc Kornblatt đã điểm bạc ở hai bên thái dương còn khuôn mặt dường như có thêm vài nếp nhăn.
- Alex Delaware, trời ơi, bạn của tôi.
- Chào anh Dan.
- Cơn gió nào đưa anh tới nơi này thế?
- Tôi tới đây để khám bệnh thôi.
- Thật thế ư? Anh đã làm tư rồi phải không?
- Từ vài năm trước cơ.
- Mở ở đâu thế?
- Ở bờ Tây.
- Thế gần đây anh có tới thành phố "khoái" ấy không?
- Gần đây thì không.
- Tôi cũng thế. Phải hai Giáng sinh nay rồi. Anh còn nhớ món Tadich Grill ấy không, là văn hoá của thành phố "khoái" đấy.
Anh ta liền giới thiệu những người đi cùng. Hai trong số bốn người ấy là bác sĩ nội trú, một người là đồng nghiệp khoa tim, còn người phụ nữ có nước da đen và lùn, có lẽ là người Trung Đông, là bác sĩ chuyên khoa trực. Tôi buộc phải tay bắt miệng cười với tất cả bọn họ một lượt. Bốn cái tên ấy nhanh chóng biến mất khỏi bộ nhớ của tôi.
Kornblatt nói:
- Anh Alex đây là một trong những chuyên gia hạng sao của chúng tôi hồi trước đấy, hồi mà bệnh viện vẫn còn sử dụng họ - Quay sang tôi, anh nói - À mà hình như tôi nghĩ các anh đã bị "loại khỏi vòng chiến đấu" ở nơi này rồi chứ. Hay là đã có gì đó thay đổi?
Tôi lắc đầu:


- Chỉ là một buổi thăm bệnh cho trường hợp đặc biệt thôi.
- A, vậy thì anh đang đi đâu đấy, định ra khỏi bệnh viện à?
Tôi gật đầu.
- Nếu anh không bận thì mời anh cùng đi với chúng tôi. Sắp có một cuộc họp nhân viên khẩn cấp. Anh còn là nhân viên ở đây không nhỉ? Chắc là có nếu anh còn đi khám bệnh thế này - Đôi lông mày anh ta nhíu lại - Làm thế nào mà anh tránh được cuộc tắm máu khoa Tâm lý nhỉ?
- Thì bằng kỹ thuật nho nhỏ thôi. Khoa tôi là khoa Nhi chứ không phải khoa Tâm thần.
- Nhi khoa à - thật hay. Đúng là một tuyệt chiêu - Quay sang những người khác - Các bạn thấy đấy, ở đâu cũng có những lỗ hổng để ta ra chiêu.
Tám con mắt tỏ ra hiểu biết. Tất cả bọn họ đều còn rất trẻ, chưa quá ba mươi.
Kornblatt nói:
- Vậy anh đi cùng chúng tôi chứ? Cuộc họp này quan trọng lắm đấy - tất nhiên nếu anh còn quan tâm tới những gì đang xảy ra ở nơi này.
- Tất nhiên - Tôi đáp, và nghé miệng vào tai anh ta - Có chuyện gì thế?
- Đó là chuyện về sự suy thoái và cái chết của đế chế Bệnh viện Nhi đồng miền Tây. Bằng chứng cụ thể là cái chết của Larry Ashmore. Thực ra, đây là cuộc họp để tưởng nhớ tới anh ta - Kornblatt chau mày - Anh nghe người thư ký nói tới chuyện đã xảy ra với anh ta rồi chứ?
Tôi gật đầu:
- Thật khủng khiếp quá.
- Đó chỉ là biểu hiện của vấn đề thôi, anh Alex ạ.
- Biểu hiện của vấn đề gì?
- Của những gì đã xảy ra ở nơi này. Hãy để ý những gì mà ban lãnh đạo ở đây đã làm mà xem. Một bác sĩ bị giết mà chẳng ai buồn gửi thông báo tới mọi người. Còn những sắc lệnh, chỉ thị của họ thì có bao giờ họ chịu tiết kiệm giấy tờ đâu.
- Tôi biết - Tôi đáp - Tôi đã bất ngờ đọc được một bản thông báo, trên cửa thư viện.
Anh ta nhăn trán:
- Thư viện nào cơ?
- Đúng là thư viện thật đấy.


- Chết tiệt - Anh ta chửi thề - Thế mà cứ mỗi lần phải nghiên cứu, tôi đều phải lái xe tới tận trường y đấy.
Chúng tôi cùng bước qua hành lang và đến trước những hàng người. Một trong số các bác sĩ trông thấy bệnh nhân của mình đang đợi trong hàng, liền nói:
- Tôi sẽ gặp các ông sau.
Nói rồi cô ta rời khỏi nhóm và tới chỗ đứa bé.
- Đừng có quên cuộc họp đấy nhé - Kornblatt nói với theo cô ta, chân vẫn không hề dừng bước. Khi chúng tôi đã thoát khỏi đám đông, anh ta nói:
- Không có thư viện, không có khoa Tâm thần, không có ngân sách dành cho tiền thưởng, toàn bộ là tiền vay. Nay còn có thêm những lời xì xào về chuyện giảm biên chế ở tất cả các khoa - ngay cả ban lãnh đạo cũng sẽ bị giảm biên chế. Thật là loạn quá. Có lẽ mấy thằng con hoang định xé nát nơi này ra để bán bất động sản cũng nên.
- Không phải là ở thị trường này chứ?
- Tất nhiên là không rồi. Tôi đang nói nghiêm túc đấy, anh Alex ạ. Chúng tôi đã không còn có lờ lãi gì nữa và họ lại chính là những người nắm quyền ở đây. Giấu nhẹm đi và cho thêm nhiều chỗ đậu xe nữa.
- Ôi dào - Tôi nói - Họ có thể sẽ che đậy những cái bên kia đường cũng nên.
- Anh chớ có dại mồm. Chúng ta chỉ là cu li cho những gã này thôi, hay đúng ra chỉ là những công nhân làm công tác lao dịch thôi.
- Làm thế nào mà họ lại có được quyền lực thế?
- Thì ông Jones - Chủ tịch Hội đồng quản trị mới - là người kiểm soát tất cả các khoản đầu tư của bệnh viện. Nghe nói ông ta có những việc làm khá tốt, vì thế khi tình hình trở nên khó khăn, ban quản trị đã họp và đề ngị phải có một người mạnh về tài chính lên nắm quyền để vực bệnh viện dậy. Sau khi được bầu, ông ta liền cho những người trong bộ máy cũ về vườn cả và đưa đội quân lâu la của ông ta tới.
Một đám đông khác đang lố nhố cạnh các cánh cửa. Có rất nhiều tiếng chân bước rộn rã, những cái đầu mệt mỏi thò ra, những cú bấm vào nút thang máy bừa bãi. Hai trong số các thang máy đang bị mắc ở đâu đó trên tầng trên. Trên cánh cửa thang máy thứ ba có tấm biển ghi chữ "Thang hỏng".
- Nào tiến lên - Kornblatt hô, tay chỉ ra cầu thang bộ và rảo bước như chạy tới đó. Tất cả bọn họ đều phi nhanh qua cầu thang thứ nhất như những con tuấn mã. Khi họ tới đỉnh cầu thang, Kornblatt nhảy nhảy như vận động viên boxing.
- Nào, ta đi - Nói xong, anh ta đẩy cánh cửa mở tung.
Đi thêm một đoạn nữa đã tới sảnh đường. Cạnh cửa sảnh có hai bác sĩ đang vươn vai, ngáp ngủ, trên đầu họ đều có đeo dải băng chữ viết tay: Tưởng nhớ Ashmore.
Tôi hỏi:
- Chuyện gì đã xảy ra với Kent Herbert ấy nhỉ?
- Ai cơ? - Kornbatt hỏi lại.
- Herbert ấy. Một chuyên gia độc học. Có phải ông ta làm việc cùng với Ashmore không?
- Tôi không biết còn có ai đó làm việc với Ashmore... - Anh ta ngập ngừng - Herbert à. Tôi không thể nhớ nổi ông ta là ai.


Chúng tôi cùng tiến vào sảnh đường hình cái quạt lớn; những hàng ghế lót vải màu xám được sắp xếp theo một mặt sàn nghiêng tới bục thuyết giảng bằng gỗ. Chiếc bảng màu xanh lá cây được đặt trên mấy cái bánh xe đứng sau bục. Nơi tựa lưng của những cái ghế là cao su và chỗ ngồi có đệm. Tiếng nói chuyện rầm rì tràn ngập căn phòng.
Sảnh đường phải chứa tới 500 ghế ngồi nhưng không đầy mấy chục ghế có người. Mọi người ngồi không tập trung khiến nơi đây giống như một lớp thi lại. Kornblatt và đoàn người của anh ta tiến xuống phía trước của căn phòng, bắt tay và chào hỏi với mọi người trên đường đi. Tôi dừng lại và ngồi một mình ở hàng ghế sau cùng.
Rất nhiều những cái áo choàng trắng, họ là những người đã được biên chế chính thức của bệnh nhân. Nhưng còn những bác sĩ tư nhân đâu? Họ không thể tới dự do được thông báo quá muộn hay họ quyết định không tới? Bệnh viện Nhi đồng miền Tây luôn tồn tại sự căng thẳng giữa những người trong biên chế và những người còn làm hợp đồng, nhưng ngoài đời thì các bác sĩ này vẫn cứ tạo được mối quan hệ cộng sinh không đến nỗi nào.
Khi nhìn xung quanh, tôi lại phát hiện ra một điều thú vị: Có rất ít những cái đầu điểm bạc trong phòng. Vậy những người cao tuổi mà tôi từng biết đi đâu hết?
Trước khi tôi kịp trả lời câu hỏi đó thì một người đàn ông tay cầm chiếc micro không dây bước lên trên bục giảng và yêu cầu mọi người trật tự. Vậy là khoảng ba mươi lăm con người, mặt còn non trẻ dưới quyền chỉ huy của một người châu Phi to lớn có mái tóc màu vàng. Chiếc áo choàng trắng của người này dường như đã hơi ngả màu vàng còn khuôn mặt thì quá to. Bên trong chiếc áo choàng là áo sơ mi đen và caravat dệt kim màu nâu.
Anh ta nói:
- Xin mọi người trật tự.
Tiếng ồn ào nhỏ dần. Một vài tiếng kêu phát ra từ micro rồi cả căn phòng trở nên yên tĩnh.
- Cảm ơn tất cả các bạn đã có mặt tại đây hôm nay. Xin ai đó ra đóng cửa hộ tôi đã.
Những khuôn mặt ngoảnh lại phía sau. Tôi nhận thấy mình là người gần cửa nhất nên đứng dậy ra đóng cẳ lại.
- Được rồi - Người đàn ông châu Phi nói tiếp - Theo trình tự, trước hết chúng ta hãy dành một phút im lặng để tưởng nhớ tới đồng nghiệp của chúng ta, bác sĩ Laurence Ashmore, xin mời mọi người đứng dậy.
Mọi người cùng đứng dậy, cúi đầu. Một phút mặc niệm trôi qua.
Người đàn ông châu Phi lên tiếng:
- Được rồi, xin mời mọi người ngồi xuống.
Nói xong, ông ta bước tới chiếc bảng, cầm mẩu phấn và viết:
Chương trình làm việc:
1. Tưởng niệm Ashmore.
2. ................................
3. ................................
4. ................................?
Bước ra khỏi chiếc bảng, ông ta nói:
- Có ai muốn nói vài lời về bác sĩ Ashmore không?
Không có ai lên tiếng.


- Vậy thì tôi xin nói. Tôi xin thay mặt toàn thể chúng ta lên án hành động tàn bạo của kẻ đã gây ra cái chết của Ashmore. Chúng ta xin bày tỏ sự cảm thông với gia đình vị bác sĩ quá cố. Ngoài vòng hoa ra, tôi đề nghị chún ta cùng góp tiền lập một quỹ nhỏ để quyên cho một tổ chức mà gia đình lựa chọn. Hay cho tổ chức mà chúng ta lựa chọn nếu như bây giờ không tiện hỏi ý kiến gia đình. Chúng ta có thể quyết định ngay bây giờ, hay vào thời điểm muộn hơn cũng được. Có ai muốn nói gì thêm không?
Một người phụ nữ tóc ngắn ở hàng ghế thứ ba lên tiếng:
- Thế Trung tâm kiểm soát độc thì sao? Ông ấy là chuyên gia độc học mà.
- Trung tâm kiểm soát độc là ý kiến hay đấy - Người đàn ông châu Phi nói - Có ai còn có ý kiến khác nữa không?
Giữa căn phòng có một bàn tay giơ lên.
- Cảm ơn, Barb. Xin hãy xuống đây. Tất cả mọi người đều biết về gia đình của vị bác sĩ quá cố chứ? Chúng ta cần thông báo cho họ về kế hoạch của chúng ta.
Không có tiếng đáp lời.
Anh ta nhìn người phụ nữ đã đưa ra ý kiến.
- Barb này, chị có thể đảm nhận giúp việc thu tiền quỹ không?
Người phụ nữ gật đầu.
- Được rồi, thưa tất cả mọi người, xin hãy mang tiền quyên góp của mình tới văn phòng của bác sĩ Barb Loman tại khoa Khớp học và chúng ta sẽ làm sao cho Trung tâm kiểm soát độc có được tiền sớm. Có ý kiến gì khác nữa không?
- Dữ liệu - Có ai đó nghiên cứu - Chúng ta không hề có chút nào cả.
- Ông có thể đứng lên và nói rõ được không, thưa ông Greg? - Người châu Phi nói.
Một người đàn ông to béo, râu quai nón mặc sơmi kẻ sọc và đeo caravat hoa khổ rộng đứng lên. Tôi biết người này, khi còn là bác sĩ nội trú ở đây. Hồi đó ông ta không có râu quai nón, và cái tên nghe như kiểu Italia...
- ... Thưa các quý vị, và anh John, điều tôi muốn nói là tình hình an ninh ở đây đã trở nên tồi tệ. Tai họa đã xảy ra với Ashmore đều có thể sẽ xảy ra với cả chúng ta, và vì cuộc sống của chúng ta đang ngàn cân treo sợi tóc nên chúng ta cần phải có được đầy đủ các thông tin. Tức là chúng ta phải biết chính xác điều gì đã xảy ra, tiến triển điều tra của cảnh sát ra sao cũng như những biện pháp có thể được tiến hành để đảm bảo an toàn của chính chúng ta.


- Không có tí an toàn nào cả - Một người đàn ông da đen đeo kính ở đầu phòng bên kia lên tiếng - Chỉ chừng nào chính quyền chịu cam kết thực sự bảo đảm an ninh cho chúng ta thì nơi này mới có. Cần phải có nhân viên bảo vệ 24/24 giờ tại tất cả các cửa ra vào khu đậu xe và mỗi cầu thang.
- Điều đó có nghĩa là phải chi thêm tiền đấy, Hank ạ - Người đàn ông râu xồm lên tiếng - Chúc anh may mắn nhé.
Người phụ nữ tóc đuôi sam màu nâu đứng dậy.
- Tiền sẽ có thôi, anh Greg ạ - Chị ta nói - nếu như họ chịu ưu tiên cho vấn đề này. Điều chúng ta không cần chính là kiểu bán quân sự chuyên chặn lối những bệnh nhân của chúng ta ở các hành lang. Điều chúng ta thực sự cần là cái mà anh và Hank đã nói: an ninh đích thực ấy, gồm các lớp tự vệ, karate, huấn luyện thể lực cá nhân, vân vân. Đặc biệt là đối với các nhân viên nữ. Hàng ngày các nữ y tá phải đối mặt với sự đe doạ từ ngoài đường phố, nhất là khi họ phải làm ca đêm - các anh đã biết về vụ hai nữ y tá bị tấn công rồi đấy, và...
- Tôi biết.
- ... các khu đậu xe bên ngoài khuôn viên bệnh viện không hề có tí an ninh nào cả. Điều này thì tất thảy chúng ta đều đã biết, từng nếm mùi rồi. Sáng nay tôi phải vào bệnh viện lúc 5 giờ sáng vì một ca cấp cứu và xin nói rằng tôi cảm thấy rất đáng sợ. Tôi cũng phải nói thêm rằng thật là một sai lầm to lớn khi chỉ giới hạn cuộc họp hôm nay trong số các bác sĩ. Bây giờ không còn là thời đại phân biệt tầng lớp nữa. Chúng ta còn có các y tá và đội ngũ nhân viên phục vụ cũng đang phải đối mặt hàng này với những đe doạ như chúng ta; họ cũng phục vụ chung một mục tiêu như chúng ta. Tất cả chúng ta cần phải ngồi lại với nhau, động viên khích lệ nhau, đoàn kết với nhau chứ không phải kiểu chia bè chia phái như thế này.
Không có ai lên tiếng.
Người phụ nữ tóc đuôi sam nhìn quanh phòng rồi ngồi xuống.
Người đàn ông châu Phi nói:
- Cảm ơn, chị Elaine, ý kiến của chị sẽ được chúng ta nghiêm túc xem xét. Dù sao, tôi cũng cần khẳng định rằng không hề có sự phân biệt nào cả đâu.
- Vậy thì - Người phụ nữ tóc đuôi sam lại đứng dậy và phản bác - có ai ngoài những bác sĩ được thông báo tới đây không?
Người đàn ông châu Phi cười:
- Đây là buổi họp riêng của đội ngũ bác sĩ trong bệnh viện thôi mà, chị Elaine, vì vậy đương nhiên chỉ có các bác sĩ tới...


- Anh nghĩ những người còn lại không quan tâm hay sao?
- Tất nhiên - Người đàn ông châu Phi đáp - Tôi...
- Những phụ nữ của Bệnh viện Nhi đồng miền Tây đều rất lo sợ. Hãy tỉnh ngộ đi, mọi người. Tất cả mọi người đều cần được khích lệ. Các bạn thử nhớ lại mà xem, nạn nhân của hai vụ tấn công trước đều là phụ nữ và...
- Đúng, tôi biết là như vậy, thưa chị Elaine. Chúng ta đều biết cả. Và tôi xin cam đoan với chị rằng trong trường hợp tổ chức các cuộc họp khác thì dĩ nhiên chúng ta sẽ mời những người khác nữa.
Elaine định tiếp tục cuộc tranh luận, nhưng rồi chị ta lắc đầu và ngồi xuống.
Người đàn ông châu Phi quay trở lại với chiếc bảng và dùng mẩu phấn để chỉ:
- Tôi nghĩ chúng ta nên nói tới phần tiếp theo. vấn đề an ninh của nhân viên, được chứ?
Một vài cái gật đầu. Rất dễ nhận ra sự bất đồng trong những người ở đây. Tôi nhớ lại những cuộc họp mấy năm trước. Toàn là những cuộc tranh cãi bất tận nhưng rất ít hoc hầu như không đi đến một quyết định nào.
Người đàn ông châu Phi đặt một dấu gạch chéo cạnh chữ Tưởng niệm Ashmore, viết tiếp dòng chữ An ninh nhân viên ở dòng tiếp theo, rồi quay lại đối mặt với toàn cuộc họp.
- Được rồi, quý vị còn ý kiến nào khác ngoài việc tăng thêm nhân viên an ninh và mở lớp karate không?
- Có - Một người đàn ông vai rộng, đầu hói lên tiếng - Chúng ta cần được trang bị súng.
Có vài tiếng tặc lưỡi.
Người đàn ông châu Phi cười khẩy:
- Cảm ơn, Al. Có phải ở Houston người ta thường xử lý tình huống theo kiểu này không nhỉ?
- Anh nói đúng đấy, John, S. và W. ở mọi ngóc ngách để khám xét bí mật. Đó là Smith và Wesson, hiểu chưa.
Người đàn ông châu Phi đưa tay làm ra vẻ một khẩu súng, chỉ vào Bald và nháy mắt:
- Có gì khác nữa không hả anh Al để biến bệnh viện này thành một trại vũ trang?
Dan Kornblatt đứng dậy.
- Tôi rất ghét phải nói ra nhưng quả thực chúng ta đang rơi vào tình trạng thấy cây mà chẳng thấy rừng. Điều chúng ta cần làm là giải quyết các vấn đề lớn hơn cơ.
- Nghĩa là sao, anh Dan?
- Nghĩa là mục đích của chúng ta ấy - mục đích của bệnh viện này.
Người đàn ông châu Phi có vẻ bối rối.
- Chúng ta đã bàn xong vấn đề thứ hai chưa nhỉ?
Kornblatt nói:
- Tôi thì cho là đã xong rồi. An ninh chỉ là biểu hiện của một căn bệnh lớn hơn.
Người đàn ông châu Phi chờ một lát rồi gạch chéo dòng chữ An ninh nhân viên.
- Căn bệnh lớn hơn đó là gì vậy, Dan?
- Đó là căn bệnh trống rỗng về tình cảm kinh niên giai đoạn cuối, căn bệnh trống rỗng tình cảm của riêng tổ chức này. Hãy nhìn xem. Trong những nhân viên ở đây có bao nhiêu người là bác sĩ hợp đồng? Hai trăm ư? Hãy nghĩ xem có bao nhiêu phần trăm quan tâm đến việc hoãn lại việc làm hôm nay để tuyên bố trước mặt họ...


- Anh Dan...
- Hãy để tôi nói hết đã. Có lý do để rất ít bác sĩ hợp đồng có mặt ở đây. Và đây cũng chính là lý do để họ tránh giới thiệu bệnh nhân của họ tới nơi này một khi tự tìm được cơ sở địa phương nào đó ổn ổn một chút. Cũng do nguyên nhân này mà rất nhiều bác sĩ dày dạn kinh nghiệm của chúng ta đã tìm đến nơi khác. Chúng ta đã bị xem là một đứa con nuôi - một bệnh viện thất bại. Và cộng đồng nhận thức được điều này bởi vì ban giám đốc và ban quản trị đã không quan tâm tới bệnh viện. Cả chúng ta cũng thế. Tôi đảm bảo rằng chúng ta đều có đủ khả năng tâm lý để biết cảm giác của một đứa trẻ ra sao khi nó luôn bị coi là kẻ thất bại. Nó sẽ bắt đầu tin đúng là như thế. Điều tương tự đúng với...
Cánh cửa bật mở. Những cái đầu quay lại. George Plumb bước vào, tay vuốt thẳng caravat, áo sơ mi trắng và bộ complê màu xám sáng. Đôi giày gõ vào sàn nhà khi ông ta đi xuống phía bục thuyết giảng. Khi tới nơi, ông ta đứng cạnh người đàn ông châu Phi, như thể đó là nơi của ông ta mới đúng.
- Xin chào tất cả các quý vị - Ông ta nói.
Kornblatt nói:
- Chúng tôi đang bàn về vấn đề trống rỗng tình cảm của bệnh viện, thưa ông George.
Plumb tỏ vẻ nghĩ ngợi, một nắm tay đặt dưới cằm.
- Tôi có cảm giác đây là buổi lễ tưởng niệm bác sĩ Ashmore.
Người đàn ông châu Phi đáp:
- Đúng là như vậy, nhưng chúng tôi muốn kết hợp bàn luôn một số vấn đề.
Plumb quay lại và nhìn lên bảng.
- Dường như đang bàn những vấn đề lớn đấy. Tôi có thể nói thêm một chút về bác sĩ Ashmore không?
Cả phòng im lặng. Rồi có những cái gật đầu. Vẻ mặt đầy tức giận, Kornblatt đành ngồi xuống.
- Trước tiên - Plumb nói - tôi muốn bày tỏ sự cảm thông sâu sắc của ban giám đốc và ban quản trị về cái chết của bác sĩ Laurence Ashmore. Bác sĩ Ashmore là nhà nghiên cứu giỏi giang và ông mất đi để lại sự thương tiếc sâu sắc. Thay vì hoa, bà Ashmore đã yêu cầu tất cả các quỹ quyên góp được chuyển cho UNICEF. Văn phòng của tôi sẽ sẵn sàng đảm nhận tất cả việc quyên góp tiền bạc. Thứ hai, tôi muốn đảm bảo với mọi người rằng đã có những tiến bộ trong viẹc làm thẻ đậu xe mới. Các thẻ đã có rồi và có thể lấy tại Ban an ninh từ ba giờ đến năm giờ ngày hôm nay và ngày mai. Chúng tôi rất xin lỗi sự bất tiện này. Tuy nhiên, tôi đảm bảo tất cả các quý vị đều nhận thức được sự cần thiết phải thay đổi chìa khoá. Có câu hỏi nào không?
Người đàn ông to béo râu quai nón tên là Greg nói:
- Thế còn các biện pháp an ninh thật sự thì sao - tức là bổ sung nhân viên gác tại các cầu thang?
Plumb cười:
- Tôi đang định nói tới điều đó, thưa bác sĩ Spironi. Vâng, cả cảnh sát và nhân viên an ninh của chúng ta đều thông báo cho chúng tôi biết rằng các cầu thang là một vấn đề, và mặc dù chi phí sẽ kh á cao nhưng chúng tôi vẫn sẵn sàng duy trì nhân viên an ninh 24/24 giờ tại các cầu thang, mỗi người một ca đối với mỗi tầng của khu đậu xe dành cho các bác sĩ cũng như một nhân viên an ninh mỗi ca cho ba khu tự do bên kia đường. Vậy tổng số nhân viên an ninh dành cho khu đậu xe là mười lăm, có nghĩa là phải đưa thêm mười một người nữa vào đội ngũ bốn người hiện nay. Chi phí, cả trợ cấp và bảo hiểm, sẽ lên tới gần 400 ngàn đôla.
- 400 ngàn! - Kornblatt đứng bật dậy và kêu lên thất thanh - Vậy là phải trả tới gần 40 ngàn đôla cho một cảnh sát sao?

thay đổi nội dung bởi: APOLONG, 02-04-2009 lúc 12:46 AM. Lý do: Gộp 2 bài gần nhau
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #11  
Cũ 02-04-2009, 12:45 AM
APOLONG's Avatar
APOLONG APOLONG is offline
Điều Hành Viên
 
Tham gia: 14/11/2008
Họ và tên: Apolong
Bài viết: 677
Xã: Tình khác
Gửi tin nhắn qua Yahoo chát tới APOLONG
Default Trả lời : [Truyện Kinh Dị] - Vũ Điệu Quỷ - [+15]

- Nhân viên an ninh chứ không phải cảnh sát, thưa bác sĩ Kornblatt. Cảnh sát thì còn phải trả nhiều hơn thế nữa ấy chứ. Như tôi đã nói rồi, con số này bao gồm tiền trợ cấp, bảo hiểm, bồi dưỡng, hậu cần, thiết bị, và cả các chi phí phụ trội ngoài lương khi phục vụ ở những vị trí nhất định chẳng hạn như những người làm công tác hướng dẫn và huấn luyện. Công ty mà chúng tôi ký hợp đồng có nhiều tiếng tăm tốt và họ đã đề nghị huấn luyện tự vệ và chống tội ác cho toàn bộ đội ngũ nhân viên của bệnh viện. Ban quản trị cảm thấy không nhất thiết phải tiết kiệm trong vấn đề này, thưa bác sĩ Kornblatt. Tuy nhiên, nếu anh muốn tìm kiếm nơi nào đó có giá cả cạnh tranh hơn thì xin cứ tự nhiên. Chỉ xin nhớ rằng thời gian là vấn đề lớn - chúng ta cần phải lập lại an ninh, đem lại niềm tin và sự an toàn tính mạng cho mọi người - trong thời gian ngắn nhất.
Chống tay vào cạnh sườn, Plumb nhìn Kornblatt.
Vị bác sĩ tim mạch nói:
- Lần trước tôi đã kiểm tra, công việc của tôi là điều trị cho những đứa trẻ, thưa ông George.
- Chính xác - Plumb nói. Quay lưng lại phía Kornblatt, ông ta nói:
- Còn câu hỏi nào nữa không?
Một phút im lặng giống như lúc mặc niệm Ashmore.
Kornblatt đứng dậy và lên tiếng:
- Tôi không biết các vị thế nào chứ tôi có cảm giác như đang bị câu thúc ấy.
Plumb hỏi:
- Câu thúc à? Nghĩa là sao, thưa bác sĩ Kornblatt?
- Này nhé, George, đây lẽ ra là cuộc họp của các bác sĩ nhưng ông đã ngang nhiên đi vào và còn chiếm luôn vị trí điều khiển buổi họp.
Plumb lấy tay xoa cằm, nhìn các bác sĩ một lượt, cười rồi lắc đầu.
- Thật ra - Ông ta nói - đó không phải là ý định của tôi.
- Có thể là không, George ạ, nhưng thực tế ông đã hành động như thế.
Plumb bước lên phía trước tới hàng ghế đầu, chọn một chiếc ghế trống và ngồi xuống, khuỷu tay đặt trên đầu gối, bàn tay đỡ cằm trông giống như một "triết gia" đang suy nghĩ.
- Câu thúc - Ông ta nói - tôi thực sự khẳng định điều đó không phải là ý đồ của tôi.
Người đàn ông châu Phi nói:
- Thưa ông George, điều Dan muốn nói...
- Không cần phải giải thích nữa, thưa bác sĩ Runge. Sự việc bi thảm xảy ra với bác sĩ Ashmore đã khiến tất cả chúng ta rất căng thẳng.
Vẫn tiếp tục tư thế của một triết gia suy tư, Plumb quay lại nói với Kornblatt:
- Tôi phải nói điều này, thưa bác sĩ, rằng tôi rất lấy làm ngạc nhiên khi nghe những câu nói đầy bè phái đó từ miệng anh phát ra. Nếu tôi nhớ không lầm thì tháng trước chính anh đã thảo ra bản ghi nhớ kêu gọi tăng cường giao tiếp giữa ban quản trị và đội ngũ nhân viên chuyên môn. Tôi nghĩ từ mà anh đã sử dụng là "thụ tinh chéo" có đúng không?


- Tôi đang nói về chuyện đưa ra quyết định ở đây, thưa ông George.
- Thì đó cũng chính là điều tôi đang muốn làm tại đây, thưa bác sĩ Kornblatt. Đó là "thụ tinh chéo" đối với các quyết định về an ninh. Theo tinh thần đó, tôi muốn nhắc lại quyết định về an ninh - với tất cả mọi người: Hãy đưa ra đề xuất an ninh riêng của mỗi người. Nếu ai có được giải pháp toàn diện như của chúng tôi mà chi phí lại rẻ hơn hoặc bằng thì ban quản trị và ban giám đốc sẽ rất vui lòng xem xét để áp dụng. Tôi chỉ muốn nói như vậy thôi. Tôi nghĩ không cần phải nói với quý vị về tình hình tài chính của bệnh viện hiện nay. Số tiền 400 ngàn đôla đó chắc là phải lấy từ đâu đó rồi.
- Chắc chắn là đánh vào khoản chăm sóc bệnh nhân thôi - Kornblatt nói.
Plumb cười:
- Như tôi đã nói rồi, việc giảm các khoản chăm sóc bệnh nhân luôn là giải pháp bất đắc dĩ không ai muốn. Nhưng mỗi tháng chúng ta phải trả nhiều chi phí. Điều này chẳng phải lỗi của anh cả mà là một thực tế hiện nay. Thực ra, có lẽ có tốt hơn nếu tôi bỏ qua vấn đề cái chết của bác sĩ Ashmore và bàn bạc vấn đề này trong một diễn đàn mở. Nói chung, vấn đề tài chính và an ninh luôn đi kèm với nhau - cả hai đều bắt nguồn từ các vấn đề dân số nằm ngoài tầm kiểm soát của tất cả chúng ta.
- Vậy là phí cộng đồng không thu được nữa à? - Spironi hỏi.
- Thật không may, thưa bác sĩ, phí cộng đồng đã không còn tồn tại nữa.
- Vậy ông có đề xuất gì? - Elaine nói - Đóng cửa ư?
Plumb quay ngoắt ánh mắt sang chị ta.- Ông ta đứng dậy vuốt chiếc caravat cho thẳng ra và thở dài:
- Điều tôi đề nghị, thưa bác sĩ Eubanks, là chúng ta cùng phải nhận thức đầy đủ cho dù hơi đau đớn về những thực tế, dù muốn dù không, đang kìm hãm chúng ta. Những vấn đề riêng của từng bệnh viện làm tồi tệ thêm tình hình vốn đã tồi tệ trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ của thành phố này, bang này và về một phương diện nào đó là cả đất nước này. Tôi đề nghị tất cả chúng ta sẽ cùng nhau hợp sức trong một khuôn khổ thực tế để duy trì sự hoạt động cầm chừng của cái bệnh viện này.
- Cầm chừng ư? - Kornblatt hỏi - Nghe có vẻ như thu nhập của chúng tôi sắp tới sẽ bị cắt giảm đi ấy, thưa ông George. Điều gì sẽ xảy ra tiếp theo, lại cắt giảm biên chế, giống như đã làm đối với khoa Tâm thần ư? Hay sẽ phải cắt giảm ở tất cả các khoa, giống như những tin đồn mà chúng tôi đã nghe thấy lâu nay?
- Tôi thực sự cho rằng lúc này chưa thích hợp để bàn về việc đó một cách chi tiết - Plumb đáp.
- Tại sao chưa chứ? Đây là một diễn đàn mở rộng cơ mà.
- Đơn giản vì lúc này chưa có số liệu gì cả.
- Vậy là ông không phản bác ý kiến cho rằng sẽ có một vài cắt giảm trong thời gian tới đúng không?
- Tôi không phản đối, Daniel ạ - Plumb đáp, hai tay chắp sau lưng - Nếu tôi phủ nhận ý kiến đó thì tôi là người không nói thật. Tôi không phủ nhận nhưng cũng không khẳng định gì, bởi vì dù khẳng định hay phủ nhận ý kiến đó đều là một hành động tổn thương đến quý vji và đến tổ chức của bệnh viện. Lý do tôi tới dự cuộc họp này của quý vị là để tưởng nhớ bác sĩ Ashmore và để bày tỏ sự đoàn kết của tôi cũng như của tập thể bệnh viện nói chung với người quá cố. Bản chất chính trị của cuộc họp này không hề được thông báo trước cho tôi và nếu tôi biết rằng mình có hành động không nên không phải thì tôi đã tránh xa trước rồi. Vậy nên xin quý vị tha thứ cho sự đường đột của tôi. Còn bây giờ, nếu tôi không nhầm thì hình như bên ngoài có mấy vị tiến sỹ đang đợi tôi - Ông ta liếc nhanh sang tôi - Chúc quý vị một ngày tốt lành.
Ông ta vẫy tay chào và lao nhanh về phía cầu thang.
Người đàn ông châu Phi nói:
- Kìa ông George - à bác sĩ Plumb?
Plumb dừng bước và quay lại:
- Có chuyện gì thế, bác sĩ Runge?
- Chúng tôi - tôi xin thay mặt toàn bộ những người ở đây nói điều này với ông - rằng chúng tôi đánh giá cao sự có mặt của ông hôm nay.
- Cảm ơn anh, John.
- Có lẽ nếu như cuộc họp này tạo ra được sự giao tiếp nhiều hơn giữa ban giám đốc, ban quản trị và đội ngũ bác sĩ thì cái chết của bác sĩ Ashmore đã có được một chút ý nghĩa.
- Chúa sẵn lòng giúp chúng ta như vậy, John ạ. - Plumb đáp và ra đi.



++++++++++++++++++++++++




Chương 12

Sau khi Plumb đi, cuộc họp mất luôn sự hào hứng. Một số bác sĩ ở lại tụ thành các nhóm để bàn bạc, còn hầu như mọi người cũng giải tán hết. Trong lúc tôi ra khỏi phòng thì bất chợt nhìn thấy Stephanie đang đi lại trong hành lang.
- Đã kết thúc chưa? - Cô hỏi và rảo bước nhanh hơn - Tôi bị giữ lại nên đến muộn.
- Kết thúc rồi. Nhưng cũng chẳng có gì nhiều để cô cảm thấy phải hối tiếc là đã không dự cuộc họp đâu. Dường như không ai có gì nhiều để nói về bác sĩ Ashmore. Cuộc họp đã biến thành cuộc đấu tố nhỏ chống lại ban quản trị. Rồi Plumb xuất hiện và khiến mọi người mất hết hứng bằng cách nhận sẽ thực hiện tất cả những yêu cầu của mọi người.
- Ví dụ?
- Tăng cường an ninh chẳng hạn - Tôi kể cho cô nghe về toàn bộ diễn biến cuộc họp, rồi chuyện tranh luận giữa Plumb và Kornblatt.
- Bức tranh sáng hơn rồi - Stephanie nói - Cuối cùng dường như chúng ta đã tìm thấy điều gì đó cụ thể với Cassie. Hãy xem đây.
Stephanie cho tay vào túi và móc ra một mẩu giấy. Tên của Cassie và số đăng ký ở bệnh viện được ghi ở trên cùng, phía dưới là một cột các con số.
- Mới tinh, được lấy từ phòng thí nghiệm vào sáng nay đấy.
Cô chỉ vào một con số.
- Lượng đường huyết thấp - hay giảm đường huyết. Điều này có thể là lời giải thích dễ dàng cho chứng bệnh nío chung của con bé rồi, Alex ạ. Điện tâm đồ không có khu tập trung và có rất ít các bất thường về sóng não. Bogner nói rằng đây là một trong những hồ sơ được đưa ra công khai để tìm câu giải thích. Tôi chắc là anh đã biết chuyện gì thường xảy ra với trẻ em rồi đấy. Vì vậy, nếu không tìm ra được chuyện con bé bị hạ đường huyết thì chúng tôi chắc chỉ còn đường chui xuống đất.
Stephanie đút mảnh giấy vào túi.
Tôi hỏi:
- Trong các xét nghiệm trước đó của con bé chưa từng phát hiện ra chuyện hạ đường huyết đúng không?
- Đúng, và tôi đã kiểm tra rất kỹ. Khi phát hiện ra hiện tượng co giật ở một đứa trẻ thì điều đầu tiên các bác sĩ thường xem xét là sự cân bằng canxi và đường trong máu. Người không có chuyên môn thì xem nhẹ chuyện giảm đường huyết nhưng ở trẻ nhỏ, giảm đường huyết có thể làm cho hệ thần kinh tổn thương nặng. Cả hai lần sau những cơn co giật, Cassie đều có mức đường huyết bình thường, nhưng tôi đã hỏi Cindy xem trước khi đưa con bé vào cấp cứu thì chị ta có cho nó uống gì không, chị ta nói rằng có cho uống nước sinh tố và soda. Cũng là chuyện đáng làm thôi. Khi thấy trẻ bị mất nước thì phải cho nó uống nước. Nhưng điều đó và quãng thời gian trên đường tới đây có thể làm cho các xét nghiệm không chính xác. Vì vậy, có khi con bé bị co giật ngay tại bệnh viện lại là chuyện tốt vì như vậy có thể làm ngay các xét nghiệm.
- Thế có biết tại sao lượng đường huyết của con bé lại thấp không?


Stephanie nhìn tôi nghiêm nghị:
- Vấn đề là ở đó, anh Alex ạ. Bệnh thiếu máu nặng đi cùng với co giật thường thấy ở trẻ sơ sinh nhiều hơn ở trẻ đã biết đi. Các trẻ sinh non, trẻ của những bà mẹ mắc bệnh tiểu đường thường bị những bệnh ảnh hưởng xấu tới tuyến tuỵ. Ở những trẻ khác, ta sẽ dễ dàng nghĩ ngay đó là do bị truyền nhiễm. Lượng bạch cầu của Cassie bình thường, nhưng có thể chúng ta chỉ thấy được những hiệu ứng còn lại thôi. Sự tổn thương dần dần tuyến tuỵ có thể do một bệnh truyền nhiễm cũ gây ra. Tôi cũng không thể loại bỏ các rối loạn về trao đổi chất, mặc dù đã kiểm tra khi con bé gặp vấn đề về hô hấp. Có thể con bé mắc một vấn đề hiếm về đường huyết mà chúng ta chưa từng gặp.
Cô ngước nhìn lên và thở dài:
- Cũng có khả năng là có khối u tuyến tiết insulin. Nếu vậy thì thật là tin không tốt.
- Thì chẳng có gì nghe có vẻ là tin tốt cả - Tôi đáp.
- Tất nhiên, nhưng ít nhất chúng ta sẽ biết mình đang làm gì.
- Thế cô đã nói với Cindy và Chip chưa?
- Tôi đã nói với họ rằng đường huyết của Cassie rất thấp và con bé có thể không có chứng động kinh kinh điển nào. Tôi thấy không cần thiết phải đi vào chi tiết trong khi chúng ta đang cố gắng chẩn đoán.
- Thế họ phản ứng ra sao?
- Cả hai người bọn họ đều thụ động - mệt mỏi. Giống như "hãy đấm thêm cho tôi một cú nữa vào mặt". Không ai trong số họ được ngủ ngon tối hôm trước cả. Người chồng liền đi làm việc ngay còn chị vợ thì lăn ra ngủ.
- Còn Cassie thì sao?
- Vẫn còn ngủ gà ngủ gật. Chúng tôi đang cố gắng để ổn định đường huyết của con bé.
- Thế con bé cần phải làm gì nữa, tiếp tục theo các thủ tục điều trị, theo dõi?
- Còn phải xét nghiệm máu, chụp X-quang ruột con bé. Có thể cuối cùng lại phải mổ ra xem bên trong đó có gì không - để được tận mắt thấy tuyến tuỵ của nó hoạt động bình thường. Nhưng thời gian còn dài. Cần phải trở lại với Torgeson đã. Ông ta đang xem xét các phác đồ điều trị trong văn phòng của tôi. Hoá ra ông ta lại là người khá hay, không hề khách sáo tí nào.
- Thế ông ấy có xem xét cả phác đồ của Chad không?
- Tôi yêu cầu nhưng người ta không tìm thấy.
- Tôi biết - Tôi đáp - Tôi cũng đang tìm đây. Có ai đó tên là Kent Herbert đã lấy nó đi rồi. Người này làm việc cho Ashmore thì phải.


- Herbert à? - Cô ngạc nhiên - Tôi chưa từng nghe nói tới người này bao giờ. Tại sao Ashmore lại cần tới phác đồ chứ, mà ngay từ đầu ông ta có hứng thú với chuyện này đâu?
- Thật là một câu hỏi hay.
- Tôi sẽ tra xét kỹ việc này. Còn bây giờ, xin hãy tập trung vào hệ thống trao đổi chất của Cassie.
Chúng tôi cùng đi về phía cầu thang.
Tôi hỏi:
- Liệu hiện tượng giảm đường huyết có thể giải thích cho các vấn đề khác được không - vấn đề khó thở và đi ngoài ra máu ấy?
- Không trực tiếp, nhưng tất cả các vấn đề có thể là biểu hiện của quá trình nhiễm bệnh nói chung hay một hội chứng hiếm gặp. Những căn bệnh mới luôn luôn đến với chúng tôi - và mỗi lần phát hiện enzyme nào đó thì chúng tôi cũng lại tìm ra người không có thứ enzyme ấy. Cũng có thể đây là một trường hợp không điển hình của cái mà chúng tôi đã cố công tìm kiếm nhưng lại không có trong máu của con bé, vì lý do gì thì có trời mới biết.
Stephanie nói nhanh và to. Cô tỏ ra hài lòng khi nói về những vấn đề thường gặp trong bệnh viện.
- Cô có còn muốn tôi tiếp tục tham gia vào vụ này không? - Tôi hỏi.
- Đương nhiên là còn. Tại sao anh lại hỏi vậy?
- Có vẻ cô đã không còn trung thành với giả thiết về hội chứng tâm lý Munchausen nữa và nghĩ rằng đây là một căn bệnh có thật.
- Mong sao đó là một căn bệnh thật sự và có thể điều trị được. Nhưng ngay cả khi sự thật là như thế thì có lẽ chúng ta đang phải đối mặt với căn bệnh kinh niên. Vì vậy, họ có thể sử dụng các thiết bị hỗ trợ, nếu anh không phiền.
- Tất nhiên.
- Cảm ơn nhiều.
Sau khi xuống khỏi cầu thang tới tầng tiếp theo, tôi hỏi:
- Liệu Cindy hay ai đó khác có thể gây ra chứng hạ đường huyết cấp không?
- Tất nhiên là có. Chị ta chỉ cần tiêm cho con bé một mũi insulin vào nửa đêm thôi. Tôi cũng đã nghĩ tới điều đó rồi. Nhưng việc đó đòi hỏi phải có những hiểu biết sâu sắc về cả thời điểm lẫn liều lượng thuốc sử dụng.
- Nghĩa là phải thực tập việc tiêm rất lâu phải không?
- Tiêm thẳng vào con bé thôi bởi vì Cindy cũng có rất nhiều thời gian bên con mình. Nhưng với phản ứng gay gắt của Cassie đối với kim tiêm thì nếu bà mẹ chọc kim tiêm vào nó thì liệu con bé có ngồi yên mỗi khi nhìn thấy mẹ nó không? Mà tôi là người duy nhất con bé đó sợ hãi... Hơn nữa, tôi chưa phát hiện ra vết tiêm bất thường nào trên cơ thể con bé.


- Liệu có dễ nhận ra những vết tiêm này không khi mà trên người con bé đã có bao nhiêu vết tiêm chích rồi?
- Tất nhiên là không dễ nhận ra, nhưng tôi luôn cẩn thận khi khám bệnh, anh Alex ạ. Lúc nào cơ thể con bé cũng được soi xét kỹ lưỡng.
- Liệu insulin có thể đưa vào cơ thể nó ngoài đường tiêm không?
Stephanie lắc đầu. Chúng tôi tiếp tục đi xuống.
- Đúng là có các chất uống vào làm cho đường huyết hạ xuống nhưng nếu có thì hội đồng độc tốt đã phát hiện ra rồi.
Nghĩ tới chuyện Cindy bị sa thải khỏi quân đội vì vấn đề sức khoẻ, tôi hỏi:
- Trong gia đình con bé có ai bị bệnh tiểu đường không?
- Anh nghĩ Cassie có cùng kiểu insulin như của ai đó à? - Stephanie lắc đầu - Ngay từ lúc đầu, khi xem xét hệ trao đổi chất của Cassie, chúng tôi đã yêu cầu luôn cả Cindy và Chip cùng làm xét nghiệm. Kết quả bình thường.
- Thôi rồi - Tôi nói - Vậy thì mong sao chúng ta gặp may trong việc tìm ra lời giải đáp.
Stephanie dừng lại và hôn nhẹ lên má tôi.
- Tôi rất cảm ơn về những nhận xét của anh, anh Alex ạ. Tôi rất thích thú được làm việc với vấn đề sinh hoá. Có lẽ tôi đang có nguy cơ bị giảm thiểu tầm nhìn rồi.
Trở lại tầng hai, tôi hỏi người lính gác nơi đặt văn phòng nhân sự của bệnh viện. Anh ta nhìn tôi từ đầu tới chân một lượt rồi mới cho biết nó ở ngay tầng hai này.
Hoá ra chính là nơi mà tôi vẫn còn nhớ chính xác. Hai người phụ nữ đang ngồi trước hai chiếc máy chữ. Người thứ ba đang xếp sắp giấy tờ. Người này đi lại chỗ tôi. Bà ta chừng năm mươi tuổi, tóc cứng, mặt lưỡi cày. Bên dưới tấm thẻ nhân sự của bà ta là cái phù hiệu hình tròn có vẻ đã cũ in hình con chó chăn cừu bù xù.
Tôi nói với bà ta rằng tôi muốn gửi thiệp chia buồn tới quả phụ của bác sĩ quá cố Ashmore và ngỏ ý xin địa chỉ của ông ta.
Bà ta đáp:
- Ôi, được. Thật kinh khủng phải không? Không biết nơi này sắp tới sẽ ra sao nữa?
Vừa nói bà ta vừa mở một chiếc kẹp tài liệu to bằng cuốn danh bạ điện thoại.
- Của ông đây, thưa bác sĩ - đường Bắc Whittier Driver, qua dãy Beverly Hills - một khu bất động sản lớn đáy. Dãy nhà số 900 ở ngay đường Sunset. Thật là đỉnh của các đỉnh. Ashmore đã sống không chỉ bằng tiền trợ cấp nghiên cứu đâu.
Người thư ký thở dài:


- Thật tội. Đấy, ông thấy không, ở đây thật không dễ tìm được sự an toàn.
Tôi hỏi:
- Thật thế sao?
- Chả thế là gì?
Chúng tôi cùng mỉm cười ý nhị với nhau.
- Con chó đẹp quá - Tôi nói và chỉ tay vào tấm phù hiệu.
Bà ta cười:
- Đó là cục cưng của tôi đấy - người bảo vệ cho tôi. Tôi nuôi toàn những con kiểu Anh cổ thực sự, vì nó có tính cách tốt và biết làm việc có ích.
- Nghe có vẻ ngồ ngộ nhỉ?
- Còn hơn thế nữa ấy chứ. Những con thú cho mà không hề mong đợi sẽ được đền đáp lại. Chúng ta có thể học được ở chúng khá nhiều điều đấy.
Tôi gật đầu:
- Tôi xin hỏi thêm một câu nữa. Bác sĩ Ashmore có làm việc cùng ai không - bác sĩ Kent Herbert gì đó phải không? Hiện đội ngũ nhân viên của bệnh viện muốn thông báo cho ông này về số tiền gây quỹ từ thiện được lập ra để tưởng nhớ tới bác sĩ Ashmore nhưng không ai biết ông ta đâu cả. Tôi đã được chỉ định tìm kiếm ông ta. Nhưng bản thân tôi, thú thực là cũng không chắc chắn ông ta còn làm việc tại đây. Vì thế, nếu bà có được địa chỉ của ông ta thì tôi rất lấy làm biết ơn.
- Herbert à - Bà ta nói - Vậy có phải ông cho rằng ông ta đã bỏ việc?
- Tôi không biết. Tôi nghĩ vào tháng Một và tháng Hai ông ta vẫn còn trong biên chế của bệnh viện. Hi vọng thông tin này có ích đôi chút cho bà.
- Rất có thể. Herbert à... để rồi xem.
Bà ta đi tới bàn làm việc của mình, lôi ra một tập hồ sơ dày cộp từ chiếc giá.
- Herbert hả, hiện tôi có hai người tên là Herbert nhưng chẳng ai trong số họ có vẻ là người mà ông nói tới. Herbert Ronald thì làm dịch vụ ăn uống còn Herbert Dawn thì trong ngành độc học.
- Có thể là Dawn. Độc học là lĩnh vực chuyên ngành của bác sĩ Ashmore mà.
Bà ta nhăn mặt:
- Dawn là tên của một người con gái. Tôi nghĩ là ông đang tìm kiếm một người đàn ông cơ đấy.
Tôi nhún vai hết ý.
- Có lẽ đã có sự nhầm lẫn - vị bác sĩ đưa cho tôi cái tên này không thực sự biết Herbert là ai, vậy nên cả hai chúng ta đều cho rằng người đó là một người đàn ông. Xin lỗi về sự nhầm lẫn này nhé.
- Ông đừng lo ngại về điều đó - Bà ta nói - Tôi không định làm to chuyện này đâu.
- Thế Dawn Herbert này có tên đệm bắt đầu bằng chữ "K" phải không nhỉ?
Bà ta nhìn xuống:


- Đúng rồi đấy.
- Thế thì đúng rồi - Tôi nói - Cái tên mà tôi được trao là D.Kent. Vậy công việc của người này thế nào?
- 533A - để tôi xem nào... - Bà ta lật qua một cuốn khác - Có vẻ như đây là một trợ lý nghiên cứu, bậc một.
- Liệu có thể nào cô ta đã được chuyển tới một khoa khác trong bệnh viện không?
Xem qua cuốn khác, bà ta nói:
- Không. Có vẻ như cô ta thôi không làm ở đây nữa.
- Thế hả... vậy bà có địa chỉ của cô ta không?
- Không, tôi không có. Chúng tôi thường bỏ đi những hồ sơ của cá nhân ba mươi ngày sau khi họ rời bệnh viện - thực sự ở đây chúng tôi đang thiếu chỗ lưu trữ.
- Bà có biết cô ta bỏ việc từ khi nào không?
- Tôi có thể giúp được ông việc này - Bà ta lật qua vài trang và chỉ vào một cái mã mà tôi không hiểu mô tê gì - Đây. Ông đã nói đúng. Cô ta ở đây khoảng trong tháng Hai. Nhưng đó cũng chính là tháng cuối cùng mà cô ta ở đây - lần cuối cùng cô ấy khai báo có mặt là vào ngày 15 tháng Hai và đến ngày 28 thì chính thức bị gạt khỏi bảng lương.
- Ngày 15 à - Tôi lẩm bẩm. Vậy là một ngày sau khi bệnh án của Chad bị lấy đi.
- Đúng ngày đó. Ông nhìn đây. 2 gạch chéo 15 (2/15) đúng không?
Tôi tiếp tục ngồi tán gẫu với bà ta thêm vài phút nữa, nghe bà ta nói chuyện về những con chó của mình. Nhưng đầu óc tôi lại hiện về những con vật hai chân.

Lúc tôi rời khỏi bệnh viện là 3 giờ 45. Cách đó vài bước chân, cảnh sát giao thông đi trên mô tô đang ghi vé phạt cho một y tá vượt ngang đường trái phép. Người y tá có vẻ rất tức giận còn khuôn mặt của viên cảnh sát thì lạnh như tiền.
Giao thông trên đường Sunset bị ngưng lại bởi vụ đâm nhau của bốn chiếc xe hơi. Phía sau là đám hỗn loạn những kẻ hiếu kỳ và những cảnh sát giao thông đang buồn ngủ. Phải mất gần một tiếng tôi mới tới được con đường xanh mướt hàng cây của đại lộ Beverly Hills.
Tôi lái qua những khu cỏ mọc rậm rì từng có ngôi nhà Arden. Cỏ bị khô héo còn cây cối trong khu đất đã chết. Cung điện Địa Trung Hải trước kia là nơi vui chơi của một vị vua Ả rập 20 tuổi rồi sau đó bị ai đó đốt mất. Dù lý do đốt cháy là gì thì người ta vẫn đồn đại rằng việc xây lại và phân chia thành từng khu cung điện đó phải tốn mất nhiều năm.


Một đoạn đường nữa thì tới khách sạn Beverly Hills nơi có những hàng dài xe Limo trắng đậu ở cửa. Có lẽ là trong khách sạn đang tổ chức đám cưới hay đang quảng bá cho một bộ phim mới.
Khi tới đường Whittier Drive, tôi quyết định tiếp tục đi không dừng lại. Nhưng khi mấy chữ trên tấm biển chỉ đường đập vào mắt, tôi lại rẽ sang phải và lái chầm chậm dần vào con phố rợp bóng cây.
Nhà của Laurence Ashmore ở cuối con đường, căn nhà kiểu Georgia bằng đá vôi cao ba tầng trên khu đất rộng ít nhất cũng 360mét vuông. Căn nhà liền một khối vững chắc và sạch sẽ. Một đường cho xe chạy lát gạch xuyên qua thảm cỏ cực kỳ bằng phẳng. Khung cảnh khá đẹp mắt, có cây khô, cây trà, và dương xỉ Hawaii - người Georgia thường thích trồng cây nhiệt đới. Một cây ô liu rủ bóng che kín một nửa bãi cỏ, nửa còn lại tràn ánh nắng vàng.
Bên trái nhà là lói cổng cho xe ra vào có mái che đủ dài để che kín một trong những hàng xe mà tôi nhìn thấy ở khách sạn. Phía sau cái cổng gỗ là những ngọn cây xanh cùng những đám hoa giấy đỏ rực.
Đúng là đỉnh của đỉnh. Dù đổ nát đi nữa thì giá ít nhất cũng là 4 triệu đôla.
Trong lối vào hình tròn dành cho xe hơi có đậu một chiếc xe, đó là con Olds Cutlass, đã năm hoặc sáu năm tuổi rồi. Trước và sau chiếc xe vài trăm mét đều là khoảng không trống rỗng. Không hề có những người mặc bộ đồ đen tưởng niệm hay những vòng hoa trên bậc cửa. Những cánh cửa sổ đều đóng kín; không dấu hiệu nào cho thấy rằng bên trong có người ở. Tấm biển của một công ty an ninh cắm trên bãi cỏ được cắt tỉa gọn gàng.
Tôi tiếp tục lái xe, vòng trở lại, đi qua căn nhà rồi về thẳng nhà mình.
Trong điện thoại chỉ có những cuộc gọi thường kỳ từ những dịch vụ mà tôi thuê; không thấy có tín hiệu từ Fort Jackson. Tôi liền gọi tới căn cứ và yêu cầu gặp đại uý Kart. Ngay lập tức anh ta có mặt.
Tôi nhắc lại cho anh ta biết tôi là ai và nói thêm rằng hy vọng tôi không làm gián đoạn bữa tối của anh ta.
Kart nói:
- Không sao đâu, thưa ông. Tôi cũng đang định gọi cho ông đây. Tôi nghĩ đã tìm ra cái mà ông muốn rồi.
- Thật tuyệt.
- Chờ tôi một giây nhé. Đây rồi. Bệnh cúm và bệnh viêm phổi trong mười năm qua, đúng thế không nhỉ?
- Chính xác rồi.
- Thế thì theo những gì tôi biết, chúng tôi chỉ có một đợt dịch cúm lớn - đó là loại bệnh dịch kiểu Thái ấy - xảy ra vào năm 1973. Nghĩa là trước thời gian mà ông yêu cầu tôi kiểm tra.
- Kể từ đó tới nay không có chuyện gì à?


- Có vẻ là vậy, thưa ông. Và cũng không có bệnh viêm phổi đâu, chấm hết. Tất nhiên những trường hợp cá biệt bị bệnh thì chúng tôi cũng có, nhưng không nghiêm trọng đến mức gọi là dịch đâu. Và chúng tôi cũng lưu giữ các tài liệu cẩn thận lắm. Điều duy nhất chúng tôi thường xuyên lo lắng về mặt bệnh truyền nhiễm là bệnh viêm màng não vi khuẩn. Chắc ông cũng biết căn bệnh này nguy hiểm thế nào ở trong một môi trường kín thế này rồi đấy.
- Tất nhiên rồi - Tôi đáp - Thế đã từng xảy ra trận dịch viêm màng não nào chưa?
- Có một vài trận. Cách đây hai năm thôi. Trước đó là vào năm 1983, rồi 1978 và 1975 cũng có. Có vẻ tôi là người hơi bi quan khi nghĩ về chuyện này. Có lẽ nên nghiên cứu về bệnh này thì hơn, biết đâu ai đó lại có thể phát hiện ra mô thức bệnh học của nó cũng nên.
- Thế những trận dịch ấy có nghiêm trọng không?
- Tôi chỉ được chứng kiến có một trận duy nhất cách đây hai năm và thực sự là nghiêm trọng. Có mấy quân nhân đã bị chết.
- Thế còn các biến chứng, tức là bị tổn thương não bộ hay những chứng rối loạn gây co giật thì có ai mắc không?
- Rất có thể. Tôi không có dữ liệu cụ thể trong tay nhưng có thể kiếm được. Hay ông muốn thay đổi đề tài nghiên cứu.
- Vẫn chưa - Tôi nói - Tôi chỉ hơi tò mò chút thôi.
- Vậy thì - Anh ta nói - tò mò cũng là một điều hay đấy. Chí ít thì cũng không sao trong thế giới dân sự.

Stephanie đã có những dữ liệu cụ thể của cô, và tôi cũng có dữ liệu của riêng mình.
Vậy là Cindy đã nói dối về việc chị ta bị loại khỏi quân đội.
Có thể Laurence Ashmore cũng đã biết được một vài dữ liệu. Biết đâu khi ông ta trông thấy tên Cassie trong giấy nhập viện và giấy ra viện nên đã tò mò.
Vậy thì chuyện gì đã khiến ông ta phải tiếp tục xem xét hồ sơ bệnh án của Chad Jones?
Bây giờ thì Ashmore đã không có cơ hội để giải thích, nhưng còn người phụ tá của ông ta thì sao?
Tôi gọi tới số 213, 310, 818 để xin một danh sách các tên Dawn Kent Herbert nhưng không tìm được gì. Tôi gọi tiếp tới các số 805, 714, và 619 nhưng cũng nhận được kết quả tương tự. Cuối cùng, tôi gọi cho Milo tại Trung tâm Parker. Anh nói:
- Tối qua tôi đã nghe về vụ án giết người mà anh nói tới rồi.


- Tôi đang ở bệnh viện thì chuyện đó xảy ra - Tôi kể lại cho anh nghe về cuộc thẩm vấn và cảnh tượng trong hành lang cũng như cảm giác bị theo dõi khi tôi lái xe ra khỏi khu đậu xe.
- Anh phải cẩn thận, anh bạn ạ. Tôi đã nhận được lời nhắn của anh và kiểm tra chồng của Bottomley nhưng không hề có dữ liệu nào về chuyện họ gọi tới cảnh sát vì có những xung đột bạo lực trong gia đình. Trong dữ liệu của Trung tâm Tội phạm Quốc gia cũng không có ai là chồng của bà ta. Nhưng đúng là cuộc sống của bà ta đang gặp một vài khó khăn. Reginald Douglas Bottomley làm trong ngành xử lý chất thải D.O.B năm 1970. Có thể đây là con trai hay là cháu trai hư hỏng của bà tay đấy.
- Thế nó đã làm chuyện gì khiến bà ấy khó xử vậy?
- Rất nhiều. Hồ sơ của nó đủ dài để phủ kín một chiếc giường của Abdul - Jabbar. Có hồ sơ phạm tội vị thành niên, uống rượu rồi lái xe, chứa chấp hàng cấm, trộm cắp cửa hàng, ăn cắp vặt, trộm đêm, cướp giật, tấn công người khác. Rất nhiều vụ phá phách, đã từng bị kết án vài lần, có một thời gian ngắn ở tù, tại nhà tụ quận hẳn hoi. Tôi đã phải viện tới một thanh tra cảnh sát của Foothill để có được thông tin về bà ta đấy. Thế chuyện gia đình của Bottomley có liên quan gì tới đứa trẻ?
- Tôi cũng chưa biết được - Tôi đáp - Chỉ muốn xem có yếu tố stress nào khiến bà ta có hành động bất thường không thôi. Cũng có thể do bà ta đã làm tôi bực mình nên tôi muốn tìm hiểu về bà ta. Tất nhiên, nếu vì bà Vicki đã đánh đập khiến thằng Reginald trở nên tồi tệ thì chúng ta cũng có được chút manh mối đấy. Bản thân tôi đang có một vài thông tin rất có giá trị. Cindy Jones đã nói dối về việc chị ta bị đuổi khỏi quân đội. Tôi đã nói chuyện với Fort Jackson và vào năm 1983 không hề có trận dịch viêm màng phổi nào xảy ra ở đó.
- Thế ư?
- Có thể cô ta đã bị bệnh viêm phổi, nhưng không hề nằm trong trận đại dịch nào cả. Vấn đề là chị ta lại nhấn mạnh tới trận đại dịch để giải thích lý do ra khỏi quân đội.
- Thật là một chuyện ngớ ngẩn để đem ra mà nói dối.
- Đó là trò chơi của những người bị Munchausen đấy - Tôi đáp - hoặc có thể chị ta đang che đậy điều gì đó. Nên nhớ, chuyện ra khỏi quân đội là một đề tài nhạy cảm với chị ta - khi nói tới chuyện này, chị ta đỏ mặt và lấy tay vấn tóc. Viên sỹ quan quân y ở căn cứ ấy nói rằng vào năm 1983 đúng là có một trận đại dịch - có thể là vào thời gian ấy Cindy đang còn ở trong quân ngũ. Nhưng đó lại là dịch viêm màng não, nghĩa là có thể dẫn tới co giật. Điều này cho chúng ta manh mối dẫn tới một hệ thống nội tạng khác mà con bé Cindy đang gặp vấn đề. Thực ra, tối qua, con bé đã có một trận co giật rất mạnh. Ngay tại bệnh viện.
- Đó là trận co giật đầu tiên ở bệnh viện đấy nhỉ.
- Đúng thế. Lần đầu tiên có người ngoài Cindy được chứng kiến.
- Lúc đó còn có ai chứng kiến nữa?

thay đổi nội dung bởi: APOLONG, 02-04-2009 lúc 12:56 AM. Lý do: Gộp 2 bài gần nhau
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #12  
Cũ 02-04-2009, 12:50 AM
APOLONG's Avatar
APOLONG APOLONG is offline
Điều Hành Viên
 
Tham gia: 14/11/2008
Họ và tên: Apolong
Bài viết: 677
Xã: Tình khác
Gửi tin nhắn qua Yahoo chát tới APOLONG
Default Trả lời : [Truyện Kinh Dị] - Vũ Điệu Quỷ - [+15]

- Bottomley và người y tá trực phòng. Nhưng điều thú vị là ở chỗ: ngày hôm qua Cindy cứ khăng khăng với tôi về việc Cassie luôn mắc bệnh ở nhà và rồi nhanh chóng khỏi khi đến bệnh viện. Vì vậy mà mọi người cứ nghĩ chị ta điên. Và rồi vài tiếng sau đó thì có chuyện. Các xét nghiệm tại phòng thí nghiệm khẳng định rằng con bé bị hạ đường huyết cấp. Stephanie cũng khẳng định rằng tình trạng của con bé đúng là có bệnh. Nhưng anh Milo ạ, bệnh hạ đường huyết lại có thể làm giả được bằng cách thay đổi lượng đường trong máu, chẳng hạn tiêm vào đó một liều insulin thôi. Tôi đã thắc mắc điều này với Stephanie nhưng tôi cho rằng cô ta không để ý tới. Lúc này cô ta như người say ấy, cố tìm xem có căn bệnh hiếm thấy nào trong hệ trao đổi chất không.
- Cô ta thay đổi ý kiến hơi nhanh nhỉ - Milo nói.
- Tôi không trách gì cô ấy. Sau mấy tháng phải đối mặt với tình trạng này, cô ấy đâm ra chán nản và muốn làm điều gì đó thực sự là chữa trị chứ không muốn theo đuổi trò chơi suy đoán tâm lý nữa.
- Còn anh thì khác...
- Đầu óc tôi hơi đen tối, anh bạn ạ - vì có quá nhiều thời gian bên anh đấy.
- Đúng thế, anh bạn - Milo nói - Mà này, tôi nghĩ chắc anh cho rằng bà mẹ đã mắc căn bệnh viêm màng não đúng không? Co giật - chắc anh nghĩ mẹ nào con ấy chứ gì? Nhưng bản thân anh đâu có rành về cái đó. Và nếu như cô ta có điều gì đó muốn che giấu thì tội gì cô ta phải khơi ra chuyện bị ra khỏi quân đội làm gì?
- Thế tại sao những người bị thẩm vấn của anh lại bịa chuyện? Nếu chị ta là con bệnh Munchausen thì chắc chị ta muốn đùa tôi với một nửa sự thật. Có lẽ cũng cần phải lấy được hồ sơ bị đuổi ra khỏi quân đội của chị ta, anh Milo ạ. Cần phải tìm hiểu kỹ chuyện gì đã xảy ra với chị ta ở Nam California.
- Tôi có thể thử làm chuyện này, nhưng tốn thời gian đấy.
- Còn nữa. Hôm nay tôi đi kiếm hồ sơ khám nghiệm tử thi của Chad Jones nhưng nó đã bị lấy đi. Một phụ tá nghiên cứu cũ của Ashmore đã lấy đi vào tháng Hai và chị ta không trở lại nữa.
- Ashmore à? Có phải người đã bị giết không?
- Chính là người đó. Ông ta là chuyên gia về chất độc. Một năm trước, chính Stephanie đã yêu cầu ông ta xem xét hồ sơ bệnh của Chad Jones khi mà cô ấy bắt đầu thấy nghi ngờ về trường hợp của Cassie. Ông ta đã làm nhưng rất miễn cưỡng - đúng là một nhà nghiên cứu chính cống nên không muốn dính dáng tới bệnh nhân. Và ông ta đã báo cáo lại cho Stephanie rằng ông ta không tìm tấhy vấn đề gì cả. Vậy thì tại sao ông ta lại lấy hồ sơ bệnh án đó làm gì chứ, trừ phi ông ta đã phát hiện ra điều gì đó mới về Cassie?
- Nếu ông ta không dính dáng tới các bệnh nhân thì làm sao ông ta lại biết về Cassie được chứ?
- Có thể ông ta đã nhìn thấy tên con bé trên danh sách nhập viện và xuất viện. Ngày nào danh sách này chẳng được thông báo và mỗi bác sĩ đều nhận được một bản. Chắc nhiều lần nhìn thấy cái tên này nên ông ta cảm thấy tò mò muốn xem xét lại cái chết của anh trai con bé. Người nữ phụ tá của ông ta là Dawn Herbert. Tôi đã cố liên lạc với cô này nhưng cô ta đã rời khỏi bệnh viện ngay sau khi lấy hồ sơ của Chad đi - đúng là đã có sự chọn lựa thời điểm. Và rồi Ashmore lại bị giết nữa. Tôi không muốn bàn tới chuyện có âm mưu gì ở đây nhưng rõ ràng chuyện này thật khó hiểu, phải không? Herbert là người có thể làm cho mọi chuyện rõ ràng nhưng không hề có địa chỉ hay số điện thoại nào được đăng ký theo tên của cô ta từ Santa Barbara cho tới San Diego.
- Dawn Herbert - Milo đáp - Có phải chữ H trong Hoover không?
- Tên đệm là Kent, K giống như trong từ Duke ấy.
- Được rồi. Tôi sẽ cố tìm xem sao trước khi hết giờ làm.
- Thế thì cho tôi cảm ơn trước.
- Anh hãy cảm ơn tôi bằng một chầu nhậu đi.
- Tôi xin đồng ý.


Tám giờ Milo tới nhà tôi, tay cầm chiếc hộp màu trắng. Bên ngoài cái hộp các tông có hình một người Ai Len đang cười toe toét, tay xoay xoay đĩa bột nhào.
- Bánh pizza à? - Tôi hỏi.
- Ừ, còn anh hãy chờ người ta mang hoá đơn đến để thanh toán nhé.
Milo mang chiếc hộp vào trong bếp, dùng móng tay để cắt dải buộc, nhấc cái nắp lên và lấy một miếng bánh ra đứng ăn tại bàn. Ăn xong, anh lại lấy thêm miếng nữa đưa cho tôi và một miếng cho mình.
Tôi nhìn miếng bánh trên tay, nào là pho mát chảy, lác đác có ít nấm, hạt tiêu, cá bống, xúc xích và rất nhiều thứ mà tôi không xác định nổi là gì.
- Cái gì thế này - dứa nữa à?
- Và cả xoài nữa đấy. Còn đây là thịt Canada, xúc xích lợn và xúc xích Tây Ban Nha. Đấy chính là pizza Pogo-Pogo chính cống đấy. Món ăn của dân chủ thực sự - một bài học về dân chủ trong ẩm thực.
Anh vừa ăn vừa phồng mồm trợn má nói:
- Có một gã người Indonesia bán thứ bánh này ở cái quán ven đường. Nhiều người xếp hàng để mua.
- Và cũng rất nhiều người xếp hàng để nộp phạt vì đậu xe sai quy định đấy.
- Anh nên nói cho đúng chủ đề đi, anh bạn - Nói đoạn, Milo lại tiếp tục chúi mũi vào đống pizza, một tay đặt bên dưới để hứng những giọt pho mát chảy xuống.
Tôi tới tủ và lấy ra hai chiếc đĩa giấy và khăn ăn để lên bàn.
- Chu cha, thật là tốt - Lấy tay lau cằm, anh hỏi tiếp - Uống tí gì chứ nhỉ?
Tôi đem hai lon Coca-Cola từ tủ lạnh.
- Cái này được chưa?
- Nếu lạnh thì được rồi.
Sau khi ăn hết miếng bánh thứ hai, Milo liền mở lon Coca-Cola và uống ừng ực.
Tôi ngồi xuống và cầm một chiếc bánh lên ăn.
- Thật không tồi đâu.
- Milo biết thứ đồ nào là đồ ngon mà - Anh lại uống thêm chút Coca-Cola nữa - Còn về cô Dawn Kent Herbert của anh ấy, tôi chẳng thấy có lệnh bắt hay lệnh truy nã nào với cô ta cả. Đây lại là một cô gái đồng trinh đấy.
Milo cho tay vào túi và lôi ra một tờ giấy đưa cho tôi. Trên tờ giấy có nét chữ đánh máy: Dawn Kent Herbert, làm trong ngành xử lý rác thải độc hại, sinh ngày 13 tháng 12 năm 1963, cao 1mét 65, nặng 60kg, da nâu, tóc nâu, đi xe Mazda Miata.
Bên dưới dòng chữ đó là một địa chỉ ở đường Lindblade, thành phố Culver.
Tôi cảm ơn anh và hỏi xem liệu anh có thông tin gì mới về vụ giết hại Ashmore không.
Anh lắc đầu nói:
- Có vẻ như một vụ cướp vẫn thường thấy ở Hollywood.
- Đúng là một người đáng để mà cướp đấy. Ông ta rất giàu có - Tôi mô tả ngôi nhà ở Bắc Whittier cho Milo.
- Không biết bên nghiên cứu có trả lương hậu hĩnh cho ông ta không? - Anh hỏi.
- Chưa bao giờ những người làm nghiên cứu được trả lương hậu hĩnh cả. Chắc Ashmore phải có nguồn thu nhập nào khác. Điều đó lý giải tại sao bệnh viện này lại thuê ông ta vào thời điểm họ đang cố gắng sa thải các bác sĩ và giảm tiền trợ cấp nghiên cứu. Có lẽ việc ông ta đên đấy đã đem theo một vài món hời nào đó cho bệnh viện.
- Có nghĩa là ông ta đã trả tiền để được vào đó làm việc?
- Chuyện đó không thể loại trừ.


- Vậy tôi hỏi anh điều này nhé - Anh nói - là chuyện anh đặt ra giả thiết Ashmore đã tò mò về trường hợp con bé ấy. Cassie đã ra vào bệnh viện đó ngay từ khi nó sinh ra. Vậy tại sao ông ta phải đợi mãi tới tận tháng Hai mới bắt đầu theo dõi?
- Thật là câu hỏi hay - Tôi khen - Xin chờ cho một giây nhé.
Tôi phóng tới phòng đọc và tìm kiếm mấy tờ giấy mà tôi đã ghi chép được về quá trình điều trị của Cassie. Milo đã ngồi xuống bàn và chúng tôi cùng lật từng trang một.
- Đây rồi - Tôi nói - Ngày đó là mười tháng Hai. Bốn gnày trước khi Herbert lấy đi hồ sơ bệnh án của Chad. Đó là lần nhập viên thứ hai của Cassie vì đau bụng. Chẩn đoán kết luận con bé bị đau bụng vì lý do không rõ ràng, có thể là do vi trùng - biểu hiện chủ yếu là đi ngoài ra máu. Có lẽ điều này đã khiến Ashmore nghĩ tới kiểu đầu độc nào đó. Có thể chuyên môn của ông ta đã không để ông ta khoanh tay trước tình huống này được.
- Nhưng sự thôi thúc ấy không đủ lớn và để ông ta nói chuyện với Stephanie.
- Đúng vậy.
- Vậy nên có thể ông ta đã tìm kiếm nhưng không thấy được gì.
- Thế tại sao không trả hồ sơ bệnh án? - Tôi hỏi.
- Kém trong quản lý gia đình thôi. Lẽ ra Herbert phải mang trả nhưng đã không làm như vỵâ. Cô ta biết mình sắp đi rồi và quên luôn cả những chuyện hồ sơ, giấy tờ đã mượn.
- Khi nào gặp cô ta tôi sẽ hỏi xem sao.
- Hay. Ai mà biết được, biết đâu cô ta lại cho anh được ngồi lên chiếc Miata của cô ta cũng nên ấy chứ.
- Thế anh có gì mới về Reginald Bottomley không?
- Vẫn chưa có gì. Fordebrand - viên cảnh sát điều tra ở Foothill - đang đi nghỉ vì thế tôi đã phải gửi lại lời nhắn cho gã tạm đảm nhận công việc của anh ta. Hy vọng gã này sẽ hợp tác.
Anh đặt lon nước xuống, nét mặt căng thẳng. Tôi hiểu anh đang nghĩ gì. Anh e ngại nếu viên cảnh sát kia biết được anh là người thế nào thì chắc gã sẽ chẳng thèm trả lời điện thoại.
- Cảm ơn anh nhiều - Tôi nói - về mọi thứ mà anh đã làm.
- Không có gì cả - Anh lắc lắc lon Coca-Cola. Cái lon đã trống rỗng. Anh liền chống cả hai khuỷu tay lên bàn, mặt đối mặt với tôi.


- Có chuyện gì à? - Tôi hỏi.
- Nghe anh nói có vẻ rất chán nản, thất vọng.
- Tôi nghĩ đúng là tôi đang thất vọng đây. Suốt ngày tôi chỉ đưa ra những lý thuyết suông trong khi Cassie lại đang gặp nguy hiểm hàng giờ.
- Tôi hiểu ý anh rồi - Anh đáp - Tốt nhất chúng ta nên tập trung, không nên bị đẩy ra quá xa vấn đề. Với những trường hợp ít có khả năng giải quyết thì nhận chúng quả là hơi liều lĩnh. Mà có trời mới hiểu, với tôi thì những chuyện như thế lại đâu có ít. Đầu tiên anh sẽ cảm thấy bất lực, rồi đến đấm không khí một cách điên cuồng mà vẫn không tìm ra được lời giải nào sáng sủa hơn. Cuối cùng, bản thân anh lại già đi mất mấy tuổi.

Một lát sau, Milo ra về. Tôi gọi điện tới phòng của Cassie. Lúc đó là sau chín giờ nên bệnh viện cắt tất cả các liên lạc trực tiếp với bệnh nhân. Tôi phải khai rõ danh tính của mình với nhân viên tổng đài mới được nối máy. Có tiếng Vicki đáp lời.
- Xin chào, tôi là bác sĩ Delaware đây.
- A... vâng, tôi có thể giúp gì được cho anh không?
- Mọi chuyện ở đó thế nào, thưa bà?
- Vẫn ổn, anh ạ.
- Bà đang ở phòng Cassie phải không?
- Không - ở bên ngoài.
- Tình hình Cassie ra sao rồi?
- Vẫn ổn.
- Nghĩa là đang ngủ à?
- Ư hừ.
- Thế còn Cindy?
- Cô ấy cũng ngủ.
- Thật là một ngày vất vả cho tất cả mọi người nhỉ?
- Ư hừ.
- Gần đây có thấy bác sĩ Eves tới không?
- Bà ấy đến lúc khoảng tám giờ - anh có cần tôi nói chính xác thời gian không?
- Không. Cảm ơn bà. Có gì mới về tình trạng đường huyết của con bé không?
- Có lẽ anh nên hỏi bác sĩ Eves mới phải.
- Thế không có đợt co giật nào mới chứ?
- Không.
- Được rồi - Tôi nói - Hãy nói với Cindy rằng tôi đã gọi tới nhé. Tôi sẽ tới vào ngày mai.
Bà ta cúp máy. Dù biết bà ta hơi kình địch với mình nhưng tôi vẫn có cảm giác kỳ lạ, gần như là sa sút về sức mạnh. Bởi vì tôi biết quá khứ bất hạnh của bà còn bà thì không hề nhận ra điều này. Rồi tôi nhận ra rằng đìêu đã biết khiến tôi không hề lại gần hơn chút nào với sự thật cả.
Thậm chí còn xa vời là khác. Đúng như Milo đã cảnh cáo.
Tôi ngồi đó, cảm nhận sức mạnh của mình đang dần dần biến mất.



++++++++++++++++++++++++


Chương 13

Sáng hôm sau tôi tỉnh giấc bởi ánh sáng của mùa xuân trong lành. Tôi chạy bộ vài cây số, quên đi cảm giác đau giần ở đầu gối và miên man nghĩ về chuyện tối qua giữa tôi và Robin.
Sau khi chạy xong, tôi tắm, cho cá ăn và đọc báo trong lúc ăn sáng. Lại là những tin tức về cái chết của Ashmore.
Tôi gọi điện tới Ban trung tâm thông tin, cố tìm kiếm một số điện thoại khớp với địa chỉ mà Milo đã đưa cho tôi về Herbert. Không hề có số điện thoại nào của địa chỉ ấy nằm trong danh bạ và hai người Herbert kia sống ở Culver City cũng không biết về người nào có họ là Dawn.
Tôi gác máy, tự hỏi liệu gặp được cô ta rồi thì có giải quyết được chuyện gì không. Cứ cho là gặp được cô ta rồi thì biết phải dùng danh phận gì, câu chuyện gì để hỏi cô ta về hồ sơ của Chad?
Tôi quyết định tập trung làm theo những gì đã được đào tạo. Thay quần áo và kẹp tấm phù hiệu bệnh viện vào ve áo, tôi ra khỏi nhà, theo đường Sunset tới Hollywood.
Chỉ vài phút sau tôi đã tới được Beverly Hills và vượt qua đường Whittier Drive mà không đi chậm lại. Bên kia đường có điều gì đó đập vào mắt tôi.
Chiếc xe Cutlass màu trắng đang đi từ phía Đông trở lại. Nó rẽ sang đường Whittier và hướng về khu nhà số 900.
Tôi liền vòng trở lại. Khi tới căn nhà kiểu Georgia to lớn kia, chiếc xe được đậu vào đúng chỗ hôm trước tôi đã thấy. Một người phụ nữ da đen bước ra khỏi xe từ phía tay lái.
Đó là một người phụ nữ còn trẻ, trạc 28, 30, thấp và nhỏ nhắn. Cô ta mặc chiếc váy vải bông màu xám dài tới tận mắt cá chân, đi dép không quai hậu. Một tay cô nàng xách chiếc túi Bullock, còn tay kia cầm chiếc bóp da.
Có lẽ đây là người giữ nhà, tôi đoán vậy. Chắc là cô ta ra ngoài để làm một số việc mua bán cho bà vợ goá của Ashmore.
Vừa lúc cô nàng quay về phía căn nhà thì đã phát hiện ra tôi. Tôi mỉm cười. Vẻ mặt cô nàng bối rối, cô liền chậm bước qua đường vào nhà. Khi tới gần, tôi thấy cô nàng khá xinh xắn, da đen đến mức tôi cứ ngỡ là màu xanh da trời. Khuôn mặt cô tròn, cằm vuông, nhìn chung là có vẻ sáng sủa và sạch sẽ giống như đeo chiếc mặt nạ của người Nubia. Đôi mắt to, tò mò nhìn thẳng vào tôi.
- Xin chào ông. Phải chăng ông từ bệnh viện tới? - Giọng Anh, được đào tạo rất bài bản.
- Vâng, đúng thế - Tôi đáp, cảm thấy thật kỳ lạ nhưng rồi nhận ra rằng cô nàng đã nhìn phù hiệu của tôi trên ve áo.


Đôi mắt cô nàng hấp háy, rồi mở to. Xung quanh mắt có vết tím. Chắc chắn là cô ta đã khóc rất nhiều. Đôi môi cũng hơi run run.
- Thật cảm kích vì ông đã tới - Cô nói.
- Tôi là Alex Delaware - Tôi giới thiệu và chìa bàn tay ra ngoài cửa sổ xe. Cô đặt chiếc túi mua hàng xuống bãi cỏ và bắt lấy tay tôi. Bàn tay cô nhỏ, khô và rất lạnh.
- Tôi là Anna Ashmore. Tôi không nghĩ lại có người tới sớm thế này.
Biết nhận định của mình sai, tôi hơi xấu hổ nhưng cũng nhanh miệng nói:
- Tôi và bác sĩ Ashmore thực ra không phải là chỗ thân tình cá nhân đâu, nhưng tôi thực lòng muốn tới viếng ông ấy.
Cô ta liền để cho bàn tay rơi thõng xuống. Xung quanh đâu đó có tiếng máy cắt cỏ kêu.
- Chúng tôi không tiến hành nghi thức nào cả. Chúng tôi không phải là người theo đạo.
Cô quay lại phía căn nhà.
- Xin mời ông vào nhà!
Phòng khách có tới hai tầng, sàn lát đá hoa cương màu sữa. Tay vịn cầu thang bằng đồng rất đẹp và cầu thang lát đá hoa cương uốn hình xoáy ốc lên tầng hai. Bên phải là phòng ăn màu vàng rộng rãi có những đồ mới tinh màu đen bóng mà người giữ nhà thực sự đang lau chùi. Phía sau cầu thang, bức tường cũng đầy những tác phẩm nghệ thuật của Ba-tích châu Phi và tranh đương đại. Qua cầu thang, một hành lang ngắn dẫn tới cánh cửa thuỷ tinh, làm khung luôn cho tấm bưu thiếp lớn của California - bức tranh phong cảnh hữu tình mà tôi vẫn thấy bày bán ngoài đường phố.
Người hầu gái từ trong phòng ăn đi ra nhận lấy túi đồ của Ashmore. Anna Ashmore cảm ơn cô hầu gái xong liền chỉ tay về bên trái tới phòng khách rộng cỡ bằng hai phòng ăn, nền thấp hơn phòng ăn khoảng hai bậc.
- Xin mời ông đi lối này - Nói rồi cô đi xuống và bật công tắc khiến rất nhiều đèn bừng sáng.
Một góc nhà là chiếc piano lớn. Tường phía đông là những cánh cửa sổ lớn đang đóng để lọt vào những tia nắng như những lưỡi dao. Sàn nhà được lát gỗ màu vàng và trải thảm màu nâu của Arập. Trần nhà ốp gỗ màu trắng, bên trên những bức tường vữa màu vàng lại là những tác phẩm nghệ thuật, vẫn những bức tranh sơn dầu và thảm phong cảnh. Tôi nghĩ đã phát hiện ra một bức tranh của Hockney ở bên trái cái lò sưởi bằng đá granite.
Căn phòng lạnh lẽo và đầy đồ đạc khiến tôi có cảm giác đó là một trung tâm thiết kế. Ghế sôpha bọc da trắng của Italia, cái ghế đẩu Breuer màu đen, mấ chiếc bàn giả cổ bằng đá và vài cái bàn khác nhỏ hơn có chân bằng đồng, mặt kính. Một trong số những chiếc bàn đá ấy được đặt trước những chiếc ghế sôpha lớn nhất. Giữa mặt bàn là chiếc bát lớn bằng gỗ nghiến đựng đầy táo và cam.


Ashmore lại nói:
- Xin mời ông - Và ngồi xuống chiếc ghế phía sau cái bát đựng hoa quả.
- Tôi lấy thứ gì cho ông uống nhé?
- Không, xin cảm ơn cô.
Cô liền ngồi ngay trước mặt tôi, mặt đối mặt, im lặng.
Một lúc bằng khoảng thời gian đi từ phòng ngoài vào đây, mắt cô đã ngấn lệ.
- Tôi xin được chia sẻ sự mất mát của cô và gia đình - Tôi nói.
Cô lau nước mắt bằng một ngón tay và ngồi thẳng người lên.
- Cảm ơn ông đã tới.
Căn phòng tràn ngập không khí tĩnh lặng khiến tôi càng có cảm giác lạnh lẽo hơn. Cô nàng lại đưa tay lau mắt và rồi đan những ngón tay vào nhau.
Tôi khen:
- Căn nhà của vợ chồng cô đẹp quá.
Cô nàng giơ tay lên và làm một động tác bất lực:
- Tôi không biết sẽ phải làm gì với nó nữa, thưa ông.
- Cô đã sống ở đây lâu chưa?
- Mới chỉ một năm. Larry là chủ sở hữu của căn nhà này trước đó rất lâu rồi, nhưng chúng tôi không sống cùng với nhau ở đây. Khi chúng tôi tới California, Larry nío rằng chúng tôi nên cùng nhau tới sống tại đây.
Cô nàng nhún vai và lại giơ hay tay lên vẻ bất lực rồi buông thõng xuống đầu gối.
- Quá lớn, thực sự rất lố bịch... chúng tôi đã bàn tới chuyện bán căn nhà này... - Cô lắc đầu - Ôi, mời ông, ông dùng thứ gì đó đi.
Tôi cầm một quả táo và gặm. Thấy tôi ăn, cô nàng có vẻ rất hài lòng.
- Thế ban đầu vợ chồng cô từ đâu chuyển tới đây? - Tôi hỏi.
- Từ New York.
- Thế trước đó bác sĩ Ashmore từng sống ở Los Angeles đúng không?
- Không, nhưng ông ấy thường tới đây để mua nhà - ông ấy có rất nhiều nhà. Nhà của ông ấy ở khắp đất nước. Đó là... công việc của ông ấy.
- Mua bán bất động sản ư?
- Mua và bán. Đầu tư. Từng có lúc ông ấy mua cả nhà ở Pháp nữa. Một căn nhà rất cổ. Một vị bá tước đã mua lại căn nhà đó và nói với mọi người rằng dòng tộc của ông ta đã gìn giữ căn nhà đó hàng mấy trăm năm. Larry rất ghét kiểu khoác lác đó. Nhưng ông ấy rất hứng thú với việc mua và bán nhà. Nó mang lại cho ông ấy sự tự do, tự tại.
Tôi hiểu lời cô ta nói vì chính bản thân tôi cũng đã nhờ vào cơn sốt đất để có được sự độc lập về tài chính vào những năm giữa thập kỷ 70. Nhưng tôi hoạt động ở mức độ còn thấp hơn nhiều.
- Trên tầng - Cô nàng nói - hoàn toàn không có gì cả.
- Thế cô sống một mình à?
- Vâng. Chúng tôi không có con cái. Nào, xin mời ông ăn cam đi. Tôi lấy từ cây ở sau vườn đấy. Rất dễ bóc.
Tôi cầm trái cam, bóc vỏ và ăn một múi.
- Tôi chỉ biết có Larry thôi, không biết nhiều người khác - Cô nàng giải thích.
Nhớ lại cô nàng đã nói rằng tôi đến sớm, tôi liền nói:
- Thế đã có ai từ bệnh viện tới đây rồi à?
Cô nàng gật đầu.


- Họ đã đến cùng với món quà - giấy chứng nhận quyên góp cho UNICEF. Họ đã cho đóng khung tờ giấy chứng nhận ấy. Hôm qua một người đàn ông đã gọi điện cho tôi, để kiểm tra xem chuyện đã xong chưa, chuyện góp cho UNICEF ấy mà.
- Một người tên là Plumb phải không?
- Không... tôi không nghĩ thế. Một cái tên dài cơ - nghe như tiếng Đức ấy.
- Phải chăng là Huenengarth.
- Vâng, đúng đấy. Ông ta rất tử tế, nói những điều tốt đẹp về Larry.
Cái nhìn của cô nàng thay đổi, như thể bị mất tập trung, và nhìn vào trần nhà.
- Hay ông cứ để tôi lấy cho ông thứ gì đó để uống nhé.
- Thế thì cho tôi ít nước vậy.
Cô nàng gật đầu và đứng dậy.
- Nếu ông may mắn thì người đưa nước Sparkletts đã tới. Nước ở Beverly Hills không thể dùng được. Chúng tôi dùng nước khoáng, không dùng nước ở đây.
Khi cô nàng đi khỏi, tôi đứng dậy và xem xét các bức tranh. Tất cả đều có chứng nhận của Hockney. Có rất nhiều loại tranh và đồ đạc quý. Rất nhiều thứ tôi không xác định được nguồn gốc. Chúng được xếp cùng với những bức Batích gam màu đất.
Cô nàng quay trở lại với một chiếc ly rỗng không, một chai Perrier và khăn ăn đặt trên cái đĩa hình ôvan.
- Thật tiếc, đã hết nước mát rồi. Tôi nghĩ nước này cũng tốt.
- Không sao, cảm ơn cô.
Cô nàng rót nước ra ly cho tôi và ngồi vào chỗ của mình.
- Tranh đẹp thật - Tôi khen.
- Larry mua từ New York khi ông ấy làm việc tại Sloan-Kettering đấy.
- Viện ung thư phải không?
- Vâng. Chúng tôi đã ở đó bốn năm. Larry rất quan tâm tới bệnh ung thư - về sự gia tăng tần suất xuất hiện bệnh, về kiểu bệnh, về tình hình ô nhiễm của thế giới. Ông ấy rất lo cho thế giới này.
Cô nàng lại nhắm mắt.
- Có phải hai người gặp nhau tại đó không?
- Không. Chúng tôi gặp nhau ở nước tôi - Sudan. Tôi sống tại một ngôi làng ở phía Nam Sudan. Cha tôi là trưởng làng. Tôi đi học tại Kenya và Anh bởi vì những trường đại học lớn ở Khartoum và Omdurman là của người Hồi giáo trong khi gia đình tôi lại theo đạo Thiên chúa. Miền Nam toàn những người theo đạo Thiên chúa và những người theo thuyết vật linh - ông có biết đó là tôn giáo gì không?
- Là những tôn giáo của bộ tộc người cổ xưa.
- Đúng. Cổ xưa, nhưng tồn tại rất lâu. Những người miền Bắc rất ghét điều này - sự tồn tại dai dẳng của nó. Lẽ ra tất cả mọi người phải là người Hồi giáo mới phải. Một trăm năm trước, họ bán những người miền Nam như những nô lệ; bây giờ họ lại cố gắng biến chúng tôi thành nô lệ cho tôn giáo của họ.
Đôi bàn tay cô nắm chặt. Toàn thân vẫn không thay đổi tư thế.
- Thế chắc ông nhà cũng từng nghiên cứu ở Sudan?
Cô gật đầu.

[ Tự động gộp bài ]
- Ông ấy đi cùng với phái đoàn của Liên Hợp quốc, nghiên cứu về các mô thức phát triển của bệnh dịch - đó là lý do tại sao ông Huenengarth nghĩ rằng quyên góp cho UNICEF là một đóng góp hợp lý.
- Về mô thức phát triển của bệnh dịch à - Tôi lẩm bẩm - Phải chăng đó là dịch tễ học?
Cô gật đầu.
- Ông ấy được đào tạo về độc học và bệnh học môi trường, nhưng chỉ hành nghề trong lĩnh vực ấy một thời gian ngắn. Toán học mới là thứ ông ấy thực sự say mê, và với dịch tễ học, ông ấy có thể kết hợp toán học với y học. Tại Sudan, ông ấy nghiên cứu tốc độ lây lan của vi khuẩn từ làng này sang làng khác. Bố tôi rất thán phục việc làm của ông và giao cho tôi nhiệm vụ giúp ông ấy lấy mẫu máu của trẻ con - trước đó tôi đã học xong y tá tại Nairobi và trở về nhà - Cô mỉm cười - Tôi trở thành phụ tá của Larry - ông không thích làm đau trẻ con. Chúng tôi trở thành bạn của nhau. Rồi những người Hồi giáo tràn tới. Bố tôi bị giết - cả gia đình tôi đều bị giết chết...
Cô kể lại cho tôi nghe bi kịch của gia đình mình bằng giọng rất thật, như thể đời cô đã liên tục phải chịu những sự mất mát lớn. Tôi tự hỏi không biết có phải vì liên tục chịu những đau đớn, mất mát nên cô đã không quỵ ngã trước cái chết của chồng mình, hay nó chỉ làm cho vấn đề trở nên nghiêm trọng hơn.
Cô nói tiếp:
- Bọn trẻ con trong làng... đều bị giết sạch khi người miền Bắc tới, Liên Hợp quốc không làm gì cả, vì thế Larry vô cùng tức giận. Ông ấy quá vỡ mộng với những nhân viên Liên Hợp quốc. Khi chúng tôi tới New York, ông ấy đã viết nhiều thư từ gửi đi các nơi và cố gắng nói chuyện với những người có chức quyền ở đó. Khi họ không chịu tiếp nhận ý kiến của Larry, ông ấy càng tức giận hơn và tính tình trở nên thâm trầm, hướng nội. Đó là lúc ông ấy lao vào mua bán bất động sản.
- Là để làm giảm bớt đi sự tức giận của ông ấy phải không?
Một cái gật đầu rất chắc chắn:

[ Tự động gộp bài ]
- Nghệ thuật trở thành nơi rút lui của ông ấy, thưa bác sĩ Delaware. Ông ấy gọi đó là nơi cao nhất mà con người có thể đạt tới. Mỗi khi mua được một bức tranh mới, ông ấy liền treo lên và ngắm nhìn hàng giờ đồng hồ. Ông thường nói rằng cần phải bao quanh chúng tôi bằng những thứ không làm tổn thương đến bản thân chúng tôi được.
Cô nàng đảo mắt quanh căn nhà một lượt rồi lắc đầu:
- Giờ ông ấy ra đi để lại toàn bộ những thứ này cho tôi, mà phần lớn những thứ này với tôi là vô nghĩa - Cô lại lắc đầu - Những bức tranh thường gợi tôi nhớ lại sự tức giận của ông ấy - ông ấy là người dễ nổi giận lắm. Kể cả kiếm tiền ông ấy cũng kiếm từ sự giận dữ.
Cô nàng nhận thấy vẻ bối rối của tôi.
- Ôi, xin lỗi đã bắt ông phải nghe câu chuyện của chúng tôi - tôi lại lan man mất rồi. Điều mà tôi muốn nói là cách bắt đầu kiếm tiền của ông ấy. Ông ấy chơi blackjack, rồi những trò chơi may rủi khác. Tuy nhiên, nói là chơi thì cũng chưa hẳn là chính xác đâu - khi đánh bạc, ông ấy ở trong thế giới riêng của mình, ham tới mức quên ăn, quên ngủ.
- Thế ông ấy thường đánh bạc ở đâu?
- Tất cả mọi nơi. Las Vegas, Atlantic City, Reno, Lake Tahoe. Số tiền kiếm được từ đánh bạc, ông ấy lại đầu tư vào những dự án khác - vào thị trường chứng khoán, trái phiếu - Cô vung cánh tay thành một vòng tròn.
- Thế ông ấy có hay thắng không?
- Gần như là luôn luôn thắng.
- Chắc ông nhà phải có hệ thống tính toán thế nào đấy chứ?
- Ông ấy có rất nhiều là đằng khác. Ông ấy dùng máy tính để tạo ra các phép tính. Nói đúng ra, ông là thiên tài toán học, bác sĩ Delaware ạ. Những hệ thống tính toán của ông ấy đòi hỏi một trí nhớ phi phàm, chỉ cần nhẩm tính là ông ấy cũng có thể cộng được cả những cột dài các con số, chẳng khác nào cái máy tính. Cha tôi nghĩ ông ấy là phù thuỷ. Khi chúng tôi lấy mẫu máu trẻ con, tôi yêu cầu ông ấy làm ảo thuật tính toán cho bọn trẻ. Chúng xem và đứa nào đứa nấy đều ngây người ra, ngỡ ngàng đến mức không còn cảm thấy kim tiêm chọc vào người mình.
Cô nàng cười và lấy tay che miệng.
- Ông ấy nghĩ rằng có thể làm thế mãi. Cô nói và ngẩng mặt lên - tức là làm giàu bằng bài bạc ấy. Nhưng rồi bọn họ phát hiện ra và xin ông ấy đi chỗ khác cho họ còn làm ăn. Đó là ở Las Vegas. Ông ấy liền bay tới Reno nhưng sòng bạc ở đó cũng biết ông ấy rồi. Larry vô cùng tức tối. Một vài tháng sau đó, ông ấy cải trang rồi trở lại sòng bạc đầu tiên. Ông ấy chơi với số tiền lớn và lại thắng.

[ Tự động gộp bài ]
Cô nàng nhớ lại những kỷ niệm ấy một lát, miệng tủm tỉm cười. Được giãi bày tâm sự đã làm cho cô nguôi ngoai đi phần nào nỗi đau. Việc này làm cho sự có mặt của tôi trở nên hợp lý.
- Thế rồi - Cô nói tiếp - ông ấy không chơi nữa. Ông ấy bảo đã chán rồi nên bắt đầu đi vào mua bán bất động sản. Về lĩnh vực này thì ông ấy tài lắm... Tôi chẳng còn biết phải làm gì khi chuyện xảy ra với ông ấy.
- Thế cô có gia đình, người thân nào ở đây không?
Cô lắc đầu và nắm chặt hai tay.
- Không có ở đây và cũng không có ở bất kỳ nơi đâu khác. Bố mẹ ông Larry nhà tôi cũng đã mất cả rồi... thật là trớ trêu quá. Khi những người miền Bắc đến, họ bắn chết phụ nữ và trẻ em. Larry tận mắt chứng kiến cảnh ấy và gào thét vào mặt họ, chửi bới và gọi họ bằng những cái tên kinh khủng nhất. Ông ấy không phải là người to lớn.. mà ông đã gặp ông nhà tôi chưa?
Tôi lắc đầu.
- Ông ấy rất nhỏ - Lại một nụ cười - Rất nhỏ. Khi không có mặt ông ấy, cha tôi thường gọi ông ấy là con khỉ. Tất nhiên là không hề có ác ý. Gọi là khỉ nhưng thâm tâm ông ấy lại nghĩ Larry là một con sư tử. Làng xóm hay lấy chuyện này ra làm chuyện khôi hài nhưng ông nhà tôi chẳng phật lòng. Có lẽ chính những người Hồi giáo cũng tin ông ấy là một con sư tử. Họ chưa bao giờ làm tổn thương tới ông ấy. Họ để ông ấy đưa tôi lên máy bay ra đi. Một tháng sau khi chúng tôi tới New York, tôi bị một tên nghiện chặn cướp. Hãi quá. Những thành phố ấy chưa bao giờ làm cho Larry phải sợ cả. Tôi thường đùa rằng ông ấy làm cho thành phố đó phải sợ. Ông ấy đúng là con khỉ nhỏ ghê gớm. Còn bây giờ...
Cô lại lắc đầu, lấy tay che miệng và nhìn đi nơi khác. Vài giây trôi qua, tôi hỏi:
- Tại sao hai vợ chồng cô lại chuyển tới Los Angeles?
- Larry không thích Sloan-Kettering. Có quá nhiều lụât lệ, quá nhiều chính trị. Ông ấy nói rằng chúng tôi nên chuyển tới California. Ông ấy nói ngôi nhà này - ông ấy nghĩ đây là ngôi nhà đẹp nhất, tốt nhất ông ấy có và thật là ngu ngốc lại để cho kẻ khác hưởng thụ trong khi chúng tôi phải sống ở căn hộ. Vì thế ông ấy đuổi người thuê nhà đi - hình như đó là một nhà sản xuất phim đã không chịu trả tiền thuê cho ông ấy.
- Tại sao ông ấy lại chọn làm việc ở Bệnh viện Nhi đồng miền Tây?
Cô nàng ngập ngừng:
- Xin ông đừng giận, thưa bác sĩ, nhưng ông ấy lý luận rằng Bệnh viện Nhi đồng miền Tây là một bệnh viện ... đang suy sụp, gặp vấn đề về tiền. Vì vậy sự độc lập tài chính của ông ấy sẽ cho phép ông ấy được yên tâm làm công tác nghiên cứu.

thay đổi nội dung bởi: APOLONG, 02-04-2009 lúc 12:57 AM. Lý do: Gộp 2 bài gần nhau
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #13  
Cũ 02-04-2009, 12:55 AM
APOLONG's Avatar
APOLONG APOLONG is offline
Điều Hành Viên
 
Tham gia: 14/11/2008
Họ và tên: Apolong
Bài viết: 677
Xã: Tình khác
Gửi tin nhắn qua Yahoo chát tới APOLONG
Default Trả lời : [Truyện Kinh Dị] - Vũ Điệu Quỷ - [+15]

- Thế ông ấy nghiên cứu về lĩnh vực gì?
- Vẫn như trước, mô thức phát triển bệnh. Tôi không biết nhiều về chuyện nghiên cứu của ông ấy - Larry không thích nói nhiều về công việc của mình - Cô lắc đầu - Ông ấy ít nói chuyện. Sau khi ở Sudan và làm việc với các bệnh nhân ung thư tại New York, ông ấy không hề muốn tiếp xúc với người bệnh và những nỗi đau của họ nữa.
- Tôi từng nghe ông ấy làm việc một mình.
Cô cười hiền:
- Ông ấy thích sống một mình. Ngay cả một thư ký ông ấy cũng không muốn có. Ông ấy nói rằng có thể đánh máy nhanh hơn và chính xác hơn máy chữ của ông ấy. Mà ông hỏi thế chắc có ý gì à?
- Ông ấy có trợ lý nghiên cứu thì phải, tên là Dawn Herbert gì đó.
- Tôi không biết tên những người này đâu, nhưng đúng. Thỉnh thoảng ông ấy có thuê những sinh viên mới ra trường, nhưng họ không bao giờ đáp ứng được các tiêu chuẩn của ông ấy.
- Có phải là trường đại học ở Westwood không?
- Đúng. Trợ cấp nghiên cứu ông ấy dành để trả cho những người phụ tá và những việc khác mà ông ấy không muốn làm. Nhưng ông ấy không bao giờ hài lòng với việc làm của họ. Sự thật là, thưa bác sĩ, Larry không thích phụ thuộc vào bất kỳ ai khác. Tự thân vận động chính là một thứ tôn giáo của ông ấy. Sau khi tôi bị cướp ở New York, ông ấy đề nghị cả hai chúng tôi cùng học võ để tự vệ. Ông ấy nói cảnh sát ở đây lười nhác và thiếu quan tâm lắm. Ông ấy tìm được ông thầy người Hàn Quốc ở Manhattan dạy chúng tôi karate, cước pháp - rất nhiều kỹ thuật. Tôi học được hai, ba buổi rồi thôi. Có vẻ như không được hợp lý lắm bởi làm sao chân tay không mà chúng ta có thể chống lại được mấy kẻ nghiện ngập có súng chứ? Nhưng Larry thì tiếp tục học và thực hành vào mỗi buổi tối. Ông ấy đã lấy được đai đấy.
- Đai đen à?
- Đai nâu. Larry nói rằng chỉ cần đai nâu là đủ; nếu như có gì đó hơn nữa thì có lẽ lại là cái tôi của ông ấy.
Cúi mặt xuống, cô nàng khóc. Tôi lấy chiếc khăn ăn từ đĩa, đứng cạnh ghế và sẵn sàng đưa cho cô khi cô ngẩng mặt lên. Bàn tay cô nắm chặt những ngón tay của tôi đến nỗi tôi cảm thấy đau, rồi mới bỏ ra. Tôi ngồi trở lại ghế.

[ Tự động gộp bài ]
Cô nói:
- Vậy ông có muốn dùng gì nữa không?
Tôi lắc đầu.
- Không bíêt tôi có thể giúp gì cho cô nhỉ?
- Không, cảm ơn ông. Chỉ cần ông đến viếng thăm gia đình thế này đã là tốt lắm rồi - chúng tôi không quen biết nhiều người đâu.
Cô nàng nhìn căn phòng thêm một lần nữa.
Tôi nói:
- Có phải cô sắp đặt chuyện tang lễ không?
- Thông qua luật sư riêng của Larry.. ông ấy đã có kế hoạch hết rồi. Tất cả mọi thứ. Ông ấy cũng có luôn cả một kế hoạch cho tôi nữa. Tôi không bao giờ biết cả. Ông ấy làm tất cả mọi thứ... tôi không biết khi nào thì tang lễ sẽ được cử hành. Trong những trường hợp như thế này... nhân viên khám nghiệm... Thật tệ quá...
Hai bàn tay cô nhanh chóng úp lấy mặt. Cô nàng lại khóc nức nở.
- Chuyện này tồi tệ quá. Tôi hay khóc lắm - Cô lấy khăn ăn lau mắt.
- Đây là một mất mát thật to lớn, thưa cô Ashmore.
- Không có gì là tôi chưa được chứng kiến cả - Cô nói rất nhanh. Bỗng nhiên, giọng cô nàng đanh lại, với vẻ mặt đầy tức tối.
Tôi không nói gì nữa.
- Mà - Cô lên tiếng - Có lẽ tôi cũng nên làm việc của mình thôi.
Tôi đứng dậy. Cô tiễn tôi ra cửa.
- Cảm ơn ông đã tới, thưa bác sĩ Delaware.
- Nếu như cô cần gì, hãy gọi tôi một tiếng nhé.
- Ông thật tử tế, nhưng chắc chắn là tôi sẽ tự làm được dù có chuyện gì xảy ra đi nữa.
Cô mở cửa.
Tôi chào cô nàng. Cánh cửa đóng lại phía sau tôi.
Tôi cất bước về phía chiếc Seville. Những tiếng làm vườn đã không còn nữa, đường phố thật đẹp và yên tĩnh.

[ Tự động gộp bài ]

+++++++++++++++++++++++++



Chương 14

Khi tôi bước chân vào phòng 505 của bệnh viện, Cassie ngồi bất động nhưng mắt dõi theo từng cử chỉ của tôi.
Tấm rèm cửa sổ đã được kéo lên để ánh sáng màu vàng xuyên qua cánh cửa hé mở của phòng tắm. Tôi thấy những chiếc quần áo ướt đang treo trên giá của nhà tắm. Những thang giường đã được hạ xuống. Căn phòng sực mùi băng cũ.
Một dây truyền nước có đánh thang độ được gắn vào cánh tay của Cassie. Những giọt nước trong suốt từ chiếc bình treo đang nhỏ xuống ống. Tiếng kêu của cái máy đo truyền nước có vẻ hơi to. Xung quanh Cassie toàn là những con LuvBunny. Trên mặt bàn là chiếc khay đựng đồ ăn sáng chưa ai **ng tới.
Tôi lên tiếng:
- Chào cháu gái.
Con bé nhoẻn miệng cười, mắt nhắm lại và lắc lư cái đầu như đứa trẻ mù.
Cindy từ nhà tắm bước ra.
- Chào bác sĩ Delaware.
Cái bím tóc của chị ta đã được vấn lên đỉnh đầu, tay áo vẫn chưa buông xuống.
- Chào chị. Tình hình chị thế nào?
- Vẫn ổn. Thưa bác sĩ.
Tôi ngồi xuống cạnh giường Cassie. Cindy đi lại và đứng cạnh tôi. Sức nặng của tôi khiến mắt Cassie mở ra. Tôi lại cười với con bé, chạm vào những ngón tay của nó. Bụng nó phập phồng nhưng rồi lại nhắm mắt lại. Đôi môi nó khô và thô ráp. Môi trên còn có một cái vẩy lớn chưa bong hẳn ra. Mỗi hơi thở của con bé đều làm cho môi động đậy.
Tôi cầm bàn tay không truyền nước của nó. Con bé không phản đối. Da nó ấm và mềm mại như da bụng cá heo.
Tôi nói:
- Cháu gái ngoan quá.
Và thấy mắt nó lay động bên dưới bờ mi.
Cindy nói:
- Đêm qua mẹ con tôi thật vất vả.

[ Tự động gộp bài ]
- Tôi biết rồi. Rất lấy làm tiếc vì điều đó đã xảy ra - Tôi nhìn xuống bàn tay đang nắm. Có rất nhiều vết tiêm cũ nhưng không thấy vết thương mới nào. Móng tay cái rất nhỏ, được cắt vuông ở đầu và hơi bẩn. Tôi ấn nhẹ, chỉ số trên máy đo truyền nước liền tăng lên,một lúc rồi lạ hạ thấp xuống kêu tí tách. Tôi làm lại như thế và kết quả tương tự xảy ra. Nhưng mắt con bé vẫn nhắm nghiền, mặt nó đã có vẻ dễ chịu hơn. Vài phút, con bé đã ngủ, nhịp thở đều đều như nhịp của những giọt nước trong ống truyền.
Cindy cúi xuống và xoa má con gái. Một con thú nhồi bông rơi xuông sàn nhà. Chị liền nhặt lên và đặt nó cạnh khay đồ ăn sáng. Cái khay ấy đặt xa hơn dự đoán của chị nên chút nữa đã làm chị mất thăng bằng. Tôi nắm lấy khuỷu tay chị và giữ chặt. Qua ống tay áo, tôi thấy cánh tay chị gầy và yếu đuối. Tôi bỏ ra nhưng chị cố nắm lấy tay tôi một vài giây.
Tôi nhận ra những đường nét đầy vẻ lo nghĩ quanh mắt và miệng chị, thấy tuổi tác đã bắt đầu có ảnh hưởng. Mắt tôi và mắt chị gặp nhau. Mắt chị đầy vẻ kỳ quái và lo sợ. Chị liền bước ra xa chỗ tôi, tới cái giường gấp và ngồi xuống.
Tôi hỏi:
- Có chuyện gì đã xảy ra vậy?
Hỏi thế chứ trước khi vào đây tôi đã đọc bệnh án rồi.
- Họ lại tiêm chọc và xét nghiệm - Chị nói - Họ làm chiếu chụp con bé rất nhiều. Con bé không được ăn uống gì cho tới tận khuya và đã không còn chịu đựng được nữa.
- Thật tội.
Chị cắn môi:
- Bác sĩ Eves nói rằng do con bé lo lắng hay phản ứng gì đó với chất đồng vị mà họ dùng trong quá trình chiếu chụp nên mới chán ăn.
- Chuyện đó đúng là đôi khi cũng xảy ra - Tôi trấn an - Nhất là khi có nhiều các cuộc xét nghiệm và chất đồng vị đã trở nên nhiều trong máu.
Chị gật đầu.
- Con bé khá mệt mỏi. Tôi nghĩ hôm nay thì bác sĩ không thể vẽ tranh với nó được rồi.
- Tôi cũng nghĩ vậy.
- Tệ quá. Thế là ông lại không có thời gian để hành sự rồi.
- Thế con bé chịu đựng việc điều trị ra sao?
- Thực ra, con bé đã quá mệt mỏi - nên nó im lặng.
Chị nhìn trở lại giường và quay đi rất nhanh. Dùng hai tay chống xuống ghế, chị đẩy mạnh để đứng lên.
Hai mắt chúng tôi lại bắt gặp nhau. Chị ta ngáp ngủ và nói:
- Ôi, cho tôi xin lỗi nhé.

[ Tự động gộp bài ]
- Vậy có gì cần tôi giúp đỡ nữa không?
- Cảm ơn bác sĩ. Hiện tôi chưa nghĩ ra điều gì cả.
Chị nhắm mắt lại.
Tôi nói:
- Tôi sẽ để chị nghỉ ngơi.
Nói rồi tôi bước ra cửa.
- Này bác sĩ Delaware.
- Có chuyện gì thế.
- Việc tới nhà chơi với con Cassie mà chúng ta đã bàn hôm trước ấy. Khi chúng tôi rời khỏi nơi này rồi, ông vẫn muốn tới thăm chúng tôi chứ?
- Tất nhiên rồi.
- Thế thì hay quá.
Có điều gì trong giọng nói của chị ta khiến tôi phải dừng lại chờ đợi. Nhưng rồi không thấy gì hơn ngoài việc chị ta ngoảnh mặt đi. Khi chị bắt đầu lấy tay vân vê bím tóc, tôi liền ra đi.
Không thấy Vicki Bottomley ở đâu. Người y tá trực là một người lạ mặt. Sau khi hoàn thành xong ghi chép của mình, tôi đọc lại những ghi chép của Stephanie, của bác sĩ thần kinh, và của bác sĩ nội tiết - một người có tên là Alan Macauley với nét chữ to và khoẻ khoắn.
Bác sĩ thần kinh không phát hiện ra điều bất thường nào sau hai lần chụp não con bé nên ông ta đã giới thiệu Macauley. Ông bác sĩ nội tiết này cũng không phát hiện dấu hiệu rối loạn nào của hệ trao đổi chất, mặc dù các thử nghiệm của ông ta vẫn còn đang được phân tích. Theo như kết luận y học, tuyến tụy của Cassie về cấu trúc và sinh hoá hoàn toàn bình thường. Macauley đề nghị làm thêm các xét nghiệm về gen và chụp X-quang để khẳng định không có u não. Ông ta còn đề nghị tôi tiến hành nhiều hơn các liệu pháp tâm lý với con bé.
Tôi chưa bao giờ gặp người đàn ông này và rất ngạc nhiên khi được ông ta viết tên mình vào trong đề xuất. Muốn hiểu rõ ý đồ của ông ta trong việc đề nghị tôi tiến hành "sâu" các liệu pháp tâm lý, tôi tra số điện thoại của bác sĩ này trong danh bạ điện thoại của bệnh viện và gọi tới.
- Macauley đây.
- Chào bác sĩ Macauley, tôi là Alex Delaware - bác sĩ tâm lý đang điều trị cho Cassie Jones.
- Hay quá. Thế ông đã tới khám bệnh cho con bé chưa?
- Mới cách đây ít phút.
- Tình hình nó thế nào rồi?
- Có vẻ mệt mỏi lắm - tôi nghĩ là do cơn co giật gây ra.
- Có lẽ vậy.
- Mẹ nó nói là nó không chịu ăn tối.
- Mẹ nó à? Vậy thì tôi có thể giúp gì được ông?
- Tôi đã đọc ghi chép của ông - về sự ủng hộ của ông đối với điều trị tâm lý liệu pháp. Tôi đang tự hỏi không biết ông có ý kiến nào nữa không?
Ông ta dừng lại rất lâu không nói. Rồi:
- Ông đang ở đâu thế?
- Tại bàn y tá của con bé.
- Vậy thì thế này, khoảng 20 phút nữa, tôi sẽ cùng người của khoa Điều trị đái đường tới. Tôi có thể đến sớm hơn chừng 5 phút. Hay là ông đến chỗ tôi đi. Tại tầng bốn nhà Đông.

[ Tự động gộp bài ]
Ông ta vẫy tay khi tôi đến và tôi nhận ra đã gặp ông ta ngày hôm trước trong buổi lễ tưởng niệm Ashmore. Đó là người đàn ông da đen, hói đầu đã nói về vấn đề súng ở Texas.
Lúc đứng đó đợi tôi, trông ông ta có vẻ to lớn hơm hôm trước, vai hơi thuôn, rộng, cánh tay khoẻ mạnh. Ông mặc chiếc áo cổ lọ màu trắng, quần jeans có ly và đôi ủng cao tới tận đầu gối kiểu miền Tây. Một tay ông cầm ống nghe còn tay kia thì làm động tác của chiếc máy bay trong khi nói chuyện với một chàng trai khoảng chừng mười bảy tuổi.
15 phút trước khi khoa Đái đường làm việc theo như kế hoạch, phòng chờ của khoa Nội tiết đã chật ních người. Trên bốn bức tường treo đầy các tấm áp phích về dinh dưỡng. Trên bàn xếp rất nhiều sách và tạp chí đã rách dành cho thiếu nhi cùng với sách hướng dẫn và những gói kẹo.
Macauley vỗ vào lưng chàng trai và tôi nghe thấy tiếng ông ta nói:
- Cậu cừ lắm - cứ thế nhé. Tôi biết nếu mà cứ để thế làm thì sẽ sướng nhưng mà dùng Mommy thì còn sướng hơn ấy chứ. Vì vậy bỏ quách nó đi cho sướng.
- Đúng đấy - Cậu con trai nói. Cậu ta có cái cằm và mũi to. Tai cũng to, mỗi bên đeo ba cái vòng màu vàng. Cậu ta cao phải tới một mét 8 nhưng đứng với Macauley thì vẫn có vẻ là thấp. Da cậu ta nhờn dầu và trên má đầy mụn trứng cá. Mái tóc thì được cắt theo kiểu trào lưu mới, đầy những góc cạnh chẳng khác gì quần của một nhà kiến trúc sau giấc mơ tiên - Vui vẻ nhé - Cậu ta lầm bầm.
- Chúc cậu cũng thật vui vẻ, chàng trai - Macauley nói - Nhưng nhớ là đừng có dùng đường đấy.
- Chết tiệt - Cậu ta nói.
- Được rồi, Kev. Cậu có thể làm gì tuỳ ý miễn là phải sử dụng bao nghe chưa.
Cậu thanh niên cười toét miệng.
Macauley lại vỗ vào lưng cậu ta và nói:
- Được rồi, đồ quỷ, hãy biến khỏi nơi đây đi. Tôi còn có bệnh nhân đang chờ đây này.
- Được rồi - Cậu ta lôi ra bao thuốc, nhét một điếu vào mồm nhưng không châm lửa.
Macauley nói:
- Này, chàng gà tây, phổi của cậu đang làm người khác nhức đầu đấy.
Cậu thanh niên cười và bỏ đi.
Macauley lại chỗ tôi.
- Những thanh niên ngỗ ngược đang bị tiểu đường. Khi chết, tôi biết mình sẽ lên thiên đường bởi vì tôi đã ở địa ngục mãi rồi.
Ông ta đưa cánh tay to khoẻ ra phía trước. Bàn tay ở cuối cánh tay ấy rất lớn nhưng cái bắt không được chặt. Khuôn mặt ông ta như con chó Ba xét với vài nét của chó bun: mũi to, môi dày, mắt đen, cụp và nhỏ. Cái đầu trọc và bộ quần áo màu tối khiến ông ta trông giống người đứng tuổi, nhưng tôi nghĩ ông ta chỉ từng 35 là cùng.
- Tôi là Al Macauley.
- Tôi là Alex Delaware.
- Vậy là những người có chữ cái đầu là Al đã gặp nhau - Ông ta nói - Nào, hãy đi khỏi đây trước khi nó biến thành một cái chợ.

[ Tự động gộp bài ]
Ông dẫn tôi đi qua những cánh cửa xoay giống như ở chỗ Stephanie, cũng những đám y tá, hộ lý, các bác sĩ nội trú, buồng điện thoại và những cái bút đang viết y hệt bên Stephanie. Cuối cùng chúng tôi tới một phòng khám được trang hoàng bằng biểu đồ tiêu chuẩn về đường trong cơ thể do một trong các hãng đường cung cấp. Tiếp đó là các tấm áp phích về năm nhóm thức ăn, trong đó món chiên và thịt được đề cập nhiều hơn cả.
- Tôi có thể giúp gì được cho ông? - Ông ta hỏi và ngồi xuống chiếc ghế xoay, xoay đi xoay lại thành những nửa vòng tròn.
- Ông có giả định nào về trường hợp của Cassie không? - Tôi hỏi.
- Giả định ư? Đó có phải là chuyên môn của ông không đấy?
- Trong một thế giới hoàn hảo thì đúng, ông Al ạ. Thật không may, thực tế luôn từ chối hợp tác.
Ông ta thở phì phò, tay đặt lên đầu, xoa xoa nơi tóc không tồn tại. Có ai đó để chiếc búa cao su dùng kiểm tra độ linh hoạt của chân trên mặt bàn. Ông ta cầm nó lên và sờ vào đầu gối mình.
- Ông đề nghị tôi điều trị tâm lý liệu pháp theo chiều sâu - Tôi nói - Tôi chỉ không hiểu...
- Ông định nói rằng liệu tôi có phải gã nhạy bén đặc biệt hay có nghi ngờ gì đó về vụ này phải vậy không? Câu trả lời là tôi có nghi ngờ về vụ này. Tôi đã đọc ghi chép của ông trong y bạ, hỏi mọi người về ông và biết ông là người tốt. Vì vậy, tôi mới giới thiệu ông.
- Ông bảo rằng vụ này đáng ngờ - Tôi hỏi - Phải chăng như là vụ có liên quan đến bệnh Munchausen thế thân?
- Ông muốn gọi nó là gì thì tuỳ - tôi là người chuyên nghiên cứu về nội tiết, không phải là bác sĩ tâm thần. Nhưng rõ ràng trong hệ trao đổi chất của con bé không hề có vấn đề gì cả. Điều này tôi có thể khẳng định với ông.
- Ông có chắc chắn là thế không?
- Nói thật, đây không phải là lần đầu tiên tôi gặp phải ca như thế này - Tôi đã từng tham gia vào ca bệnh này từ mấy tháng trước khi con bé đi ngoài ra máu. Chẳng có ai ngoài bà mẹ nhìn thấy phân có máu của nó cả, còn những vết máu trên tã của nó thì đâu đáng để tôi lưu tâm. Ngoài ra, tôi luôn cẩn thận đặc biệt trong nghề nghiệp. Tất cả các thí nghiệm nội tiết đều được làm bài bản.
- Nhưng lần co giật này thì có người khác nhìn thấy.
- Tôi biết - Ông ta đáp vẻ thiếu kiên nhẫn - Cô y tá và người trực phòng. Và lượng đường huyết thấp chính là lời giải thích cho cơn co giật. Nhưng điều không giải thích được là tại sao lại có hiện tượng hạ đường huyết. Con bé không hề có bất thường nào về gen hay trao đổi chất, không có rối loạn về tích trữ đường, tuyến tụy hoạt động hoàn toàn bình thường. Vào thời điểm nào, tôi không còn phải biết nói gì nữa ngoài việc viết nên những báo cáo thí nghiệm như thời còn ở trong trường đại học. Chúng ta đang có một đứa bé hai tuổi được xét nghiệm nhiều nhất tại bán cầu Tây. Có muốn đưa cho nó vào sách Guinness không?
- Thế liệu có khả năng đó là căn bệnh lạ, biến thể hiếm thấy của một căn bệnh đã biết?
Ông ta nhìn tôi, chuyển chiếc búa từ tay nọ sang tay kia.
- Mọi thứ đều có thể xảy ra.
- Nhưng ông không nghĩ như vậy đúng không?
- Điều tôi không bao giờ nghĩ sẽ xảy ra là các tuyến nội tiết của con bé có gì đó trục trặc. Đây là đứa bé hoàn toàn khỏe mạnh, nó bị hạ đường huyết ắt là có nguyên nhân khác.
- Phải chăng là có người đã cho nó uống thứ gì đó?
Ông ta tung cái búa lên và dùng hai ngón tay đỡ lấy. Lặp lại động tác này vài lần, ông ta mới nói:
- Ông nghĩ gì vậy? - Ông ta mỉm cười - Thực tình, thì đó chính là điều tôi nghĩ đấy. Điều đó rất hợp lý đúng không nếu ta xem xét lịch sử của gia đình họ - về đứa bé đã chết non ấy.
- Trong vụ ấy, ông có khám cho nó không?

[ Tự động gộp bài ]
- Không, mà tại sao tôi phải khám cho nó chứ? Ca đó hẳn liên quan tới đường hô hấp. Tôi nghĩ rằng ca đó không hẳn đã có gì mờ ám - trẻ con chết khi đang ngủ là chuyện thường xảy ra. Nhưng chắc ca ấy khiến cho ông phải suy nghĩ phải không?
Tôi gật đầu:
- Khi tôi nghe về vụ hạ đường huyết, điều đầu tiên tôi nghĩ tới là con bé đã bị đầu độc insulin. Nhưng Stephanie nói rằng không có dấu vết tiêm mới nào trên cơ thể con bé.
Ông ta nhún vai:
- Có thể là có đấy. Tôi không hề khám xét cơ thể con bé kỹ càng. Nhưng đúng là có nhiều cách để tiêm mà ít để lộ dấu vết, đó là sử dụng kim tiêm thật nhỏ - loại kim tiêm dành cho trẻ sơ sinh. Tiếp đó, chọn một nơi người ta dễ bỏ qua, chẳng hạn như khe bẹn, khúc gấp của đầu gối, kẽ chân, da đầu... Những bệnh nhân dùng ma tuý của tôi luôn sáng tạo ra cách tiêm mà không có dấu vết lộ ra ngoài. Ngoài ra, insulin nhanh ngấm vào da. Một vết tiêm nhỏ như thế thì sẽ liền dấu rất nhanh.
- Phải chăng ông nghi ngờ Stephanie?
Ông ta gật đầu:
- Đúng vậy, nhưng bà ta còn đang tìm kiếm cái gì đó rất khó hiểu. Nói thật nhé, tôi không hề có cảm giác bà ấy muốn nghe điều này đâu. Với tôi, chuyện này có nói với bà ta thì cũng chẳng sao cả. Tôi sắp không phải dính tới vụ này nữa. Tôi bỏ việc. Thế thôi.
- Ông bỏ bệnh viện sao?
- Đúng vậy. Một tháng nữa, sau đó tôi sẽ được tới nơi yên tĩnh hơn. Tôi cần thời gian để hoàn tất các ca bệnh còn lại. Chuyện sắp tồi tệ đến nơi rồi - có nhiều gia đình đang vô cùng tức giận. Vì thế tôi thật sự không muốn dính vào chuyện của nhà Chuck Jones khi mà tôi cũng không chẳng thể giúp gì được trong chuyện này.
- Phải chăng vì đây là chuyện gia đình của ông ta?
Ông lắc đầu.
- Có thể cho là như thế, nhưng chuyện này chính trị, chính em lắm. Tuy nhiên, bản thân ca bệnh này làm tôi thấy khó xử chứ không phải gia đình ông ấy. Con bé có thể là cháu gái của bất kỳ ai đi nữa thì chúng ta cũng đành bó tay vì không hề có dữ liệu nào rõ ràng cả. Hãy cứ để ý mà xem. Ông cũng biết có chuyện gì đang xảy ra. Tôi cũng biết. Stephanie cũng từng biết cho tới khi bà ấy gặp phải vụ hạ đường huyết. Nhưng biết thì có giải quyết được gì đâu, bởi vì chúng ta không thể làm gì được cả. Đó là điều tôi ghét nhất về cách cha mẹ xử tệ với con cái - nếu cha mẹ bị kết tội thì họ sẽ tìm tới bác sĩ khác. Và ngay cả khi ông chứng minh được điều gì đó thì ông cũng dính vào một đống luật sư, rồi giấy tờ, rồi nhiều năm ra toà khiến cho uy tín của chúng ta ra bã. Còn đây quả là vụ án thối nát nhất mà ngay cả ông cũng không thể làm gì được.
- Nghe như ông từng có kinh nghiệm ấy.

[ Tự động gộp bài ]
- Vợ tôi là công chức xã hội của tỉnh. Hệ thống đó đã quá tải rồi, ngay cả trẻ em bị gãy xương giờ cũng không được ưu tiên nữa. Nhưng giờ ở đâu mà chẳng thể - tôi từng có một ca ở Texas, một đứa trẻ bị bệnh đái đường. Người mẹ không cho nó dùng insulin và chúng tôi phải cố gắng lắm mới giữ được an toàn cho đứa bé đó. Mà mẹ nó lại là y tá nữa chứ. Y tá đỉnh nữa đấy.
- Lại nói về y tá - Tôi nói - ông nghĩ thế nào về y tá chính của Cassie?
- Ai vậy nhỉ? - À bà Vicki chứ gì. Tôi nghĩ bà ấy quả là người tận tuỵ hết sức, làm rất tốt công việc của mình - Đôi mắt cụp của ông ta nhướng lên - Mà, ôi chao, tôi không bao giờ nghĩ tới điều đó lâu. Bởi vì dường như nó khá vô lý. Nếu không có vụ co giật gần đây nhất thì chuyện toàn bắt đầu ở nhà họ thôi, phải vậy không?
- Vicki có tới gia đình họ, nhưng chỉ hai lần. Đúng là không đủ để gây hại gì.
- Ngoài ra - Ông ta nói - bệnh Munchausen thường là do những người mẹ phải không? Và người mẹ này thật là kỳ lạ - ít nhất thì trong ý nghĩ vô giáo dục của tôi.
- Nghĩa là sao?
- Tôi cũng không biết nữa. Bà ta đúng là quá tử tế. Nhất là trong những lần khám xét vụng về của chúng tôi với con bé. Tôi đã mất hết cả bình tĩnh, quát tháo ỏm tỏi. Nhưng lúc nào bà ta cũng nở nụ cười. Với tôi, bà ta cười hơi nhiều. Lúc nào cũng "chào bác sĩ, ông khoẻ không". Tôi chưa bao giờ tin tưởng những người cười nhiều, ông ạ. Một trong những người vợ cũ của tôi cũng là người cười nhiều. Những cái răng trắng luôn che giấu điều gì đó - ông có thể biết rất rõ về mặt tâm lý của hành động cười đó rồi đúng không?
Tôi nhún vai và nói:
- Thật là một thế giới hoàn hảo.
Ông ta phá lên cười:
- Ông thật là người biết đùa.
Tôi hỏi tiếp:
- Thế ông có ấn tượng nào về người bố không?
- Tôi đã bao giờ gặp ông ta đâu. Mà tại sao chứ? Hay ông ta cũng là người kỳ quái?
- Tôi không nhớ rằng ông ta có gì kỳ quái. Có điều ông ta là người mà ông sẽ cho rằng không phải là con trai của Chuck Jones. Râu quai nón, lại còn đeo khuyên tai. Dường như ông ta không hề thích bệnh viện chút nào.
- Thì chí ít ông ta và Chuck cũng có điều gì đó chung... Theo tôi hiểu, ca bệnh này đúng là một thất bại, và tôi đã chán ngấy sự thất bại lắm rồi. Đó là lý do tôi giới thiệu ông. Còn bây giờ, ông lại nói với tôi rằng ông cũng tuyệt vọng. Thật tồi tệ quá.
Ông ta cầm cái búa lên, tung lên rồi lại bắt lấy, cuối cùng gõ cái búa lên mặt bàn.
Tôi nói:

[ Tự động gộp bài ]
- Thế tình trạng hạ đường huyết có giải thích được biểu hiện nào trước đó của Cassie không?
- Có thể giải thích được hiện tượng đi ngoài phân lỏng. Nhưng con bé còn bị sốt nữa, vì vậy có lẽ hiện tượng ấy lại do vi khuẩn gây ra. Còn về vấn đề khó thở thì hạ đường huyết cũng có thể liên quan. Một khi đã có sự trục trặc xảy ra với hệ trao đổi chất thì điều gì cũng có thể xảy ra.
Ông ta cầm ống nghe lên và nhìn vào đồng hồ:
- Bây giờ tôi phải làm việc rồi. Ngoài kia còn có mấy đứa trẻ, đây là lần cuối cùng tôi khám cho chúng đấy.
Tôi đứng dậy và cảm ơn ông ta.
- Cảm ơn tôi vì cái gì? Vì tôi cũng đã tuyệt vọng hẳn với vụ này hả?
Tôi cười:
- Vì chí ít thì cũng có người có cùng cảm giác với tôi.
- Đúng là sự thất vọng của những người làm công tác tư vấn. Ông còn nhớ câu chuyện về con gà trống đạp gà mái vô độ, thường xuyên làm phiền những con gà mái trong chuồng chứ? Nó thường chạy theo lũ gà mái rồi nhảy lên lưng chúng, nhưng hoá ra nó lại làm hại chính mình, phải vậy không? Và chính vì thế nên người nuôi đã thiến nó đi và biến nó thành một "tư vấn viên". Bây giờ, nó chỉ ngồi trên bờ rào, quan sát và tư vấn cho những con gà trống khác. Vậy là ông hiểu người làm công tác tư vấn thường cảm thấy thế nào rồi chứ?
Tôi lại cười. Chúng tôi rời khỏi phòng khám, trở ra phòng đợi. Một y tá tới chỗ Macauley và đưa cho ông ta chồng bệnh án mà không nói thêm câu gì. Cô ta có vẻ rất tức giận khi bỏ đi.
- Xin chào cô em nhé - Ông ta nói, rồi quay sang phía tôi - Tôi là kẻ bị tẩy chay rồi. Mấy tuần tới sẽ là lúc tôi bị trừng phạt.
Ông nhìn vào đám người nhốn nháo ngoài phòng khám, khuôn mặt chó bun của ông trở nên buồn bã.
- Phải chăng ý ông là ông sẽ mở phòng mạch ư?
- Thực ra là cùng mở phòng mạch với một nhóm người. Tại một thị trấn nhỏ ở Colorado, không xa Vail lắm. Mùa đông tôi có thể trượt tuyết, còn mùa hè thì đi câu cá, phần còn lại của năm thì tìm tới những thú vui khác để tiêu khiển.
- Thế thì cũng không tồi đâu.
- Tất nhiên là vậy. Trong nhóm chúng tôi không ai khác chuyên về nội tiết vậy nên có lẽ tôi lại có dịp hành nghề nhiều hơn.
- Thế ông ở Bệnh viện Nhi đồng miền Tây được bao lâu rồi?
- Hai năm. Đúng ra là một năm và hơn một nửa năm dài nữa.
- Phải chăng ông buồn vì tình hình tài chính của bệnh viện?

[ Tự động gộp bài ]
- Đó chỉ là một phần của vấn đề chứ không phải tất cả. Khi tới đây, bản thân tôi cũng không phải là người lạc quan vĩnh viễn, thường tự nhủ rằng một bệnh viện ở giữa thành phố sẽ luôn phải vật lộn để đủ ăn. Nhưng thái độ của những người ở đây thực sự đã làm tôi phát ngán.
- Phải chăng là ông muốn nói tới lão già Chuck?
- Và cả những thằng con trai của ông ấy nữa. Bọn họ đang cố gắng biến nơi này thành một công ty và chúng ta phải sản xuất ra những thứ không tên mà họ quan tâm. Điều gây đau đớn nhất chính là đó - sự không hiểu biết của họ. Ngay cả kẻ du mục cũng hiểu thế nào là sự tồi tệ - Ông có hiểu ý tôi nói không?
- Có chứ.
Ông ta cười:
- Đúng ra thì ở đây tôi cũng được trả lương khá hậu hĩnh, còn nhiều hơn mức đáng lẽ tôi nhận được từ chính phủ. Nhưng có lần tôi đã điều trị cho một cậu bé chín tuổi, rất kháu khỉnh. Mẹ thằng bé là người phụ nữ xinh đẹp, có học thức và rất hiểu biết. Thường thì cô ta luôn tươi cười khi gặp tôi, luôn miệng khen ngợi tôi hết lời, nói rằng tôi đúng là bác sĩ do Chúa trời ban xuống. Nhưng lần gần đây nhất cô ta không nói không rằng với tôi. Kiểm tra tình trạng của đứa con cô ta, kết quả rất tốt. Khi tôi hỏi lý do, cô ta nói: "Nơi này có nhiều tiếng đồn xấu lắm, bác sĩ Al ạ". Rồi cô ta nheo mắt như một bà bói. Tôi hỏi ý cô ta là gì, cô ta không giải thích, chỉ chạm vào tay tôi mà nói: "Tôi rất quý bác sĩ, cả Anton cũng thế. Nhưng chúng tôi sẽ không trở lại đây nữa đâu. Có nhiều tai tiếng về nơi này lắm."
Ông ta lấy tay nâng chồng bệnh án như thể đang cân rồi chuyển sang tay kia.
- Có thấy mạo hiểm không?
Tôi nói:
- Có lẽ chúng ta nên hỏi ý kiến bà mẹ đó về trường hợp của Cassie.
Ông cười. Bệnh nhân tiếp tục xếp hàng đi vào mặc dù đã không còn đủ chỗ cho họ nữa. Một số người chào ông ta, ông ta đáp lại bằng những cái nháy mắt.
- Cảm ơn ông vì đã dành thời gian cho tôi.
Ông đáp:
- Rất tiếc là chúng ta không có được cơ hội để làm việc cùng nhau.
- Vậy tôi chúc ông gặp được nhiều may mắn ở Colorado.
- Vâng - Ông đáp - Thế ông có thích trượt tuyết không?
- Không.
- Tôi cũng thế... - Ông ta nhìn trở lại phòng đợi và lắc đầu - Thật là một nơi tồi tệ... Ban đầu, tôi định sẽ là bác sĩ phẫu thuật, nhưng vào năm học thứ hai, tôi mắc chứng đái đường. Biểu hiện thì không có gì nhiều, chỉ thấy sút đi vài kilogam. Tôi không nghĩ mình bị bệnh này vì quá trình ăn uống tôi giữ gìn cẩn thận. Rồi khi tới phòng thí nghiệm giải phẫu xét nghiệm, tôi đã suy sụp khi nghe tin dữ. Lúc đó là trước Giáng sinh. Khi về nhà, gia đình tôi đã cho tôi chén thịt nướng mật ong, không ai đả động gì tới chuyện của tôi. Tôi cũng xông vào chén, quên hết sự đời. Rồi cuối cùng tôi nghĩ đã tới lúc phải quên chuyện làm bác sĩ phẫu thuật và nghĩ tới mọi người. Đó là lý do tại sao nơi này lại quyến rũ tôi - được làm việc với lũ trẻ và gia đình chúng. Nhưng khi đến đây, tất cả những ước mơ của tôi đã tan thành mây khói. Đúng là có những tai tiếng ở nơi này thật. Đến cả người đàn bà lang thang ấy mà còn biết được điều đó ngay khi bước chân vào đây. Với ông thì có vẻ là điên rồ nhưng cô ta quả thật đã nói rất thật những gì tôi nghĩ bấy lâu nay. Đúng là Colorado sẽ rất buồn - nào là hắt hơi, xổ mũi suốt ngày, và ở đây tôi chưa làm đủ thời gian để được nhận lương hưu nên về tài chính thì hai năm làm việc đó coi như bỏ đi. Tuy vậy, chí ít thì tôi cũng không còn phải đậu trên hàng rào để làm tư vấn cho những con gà trống khác. Cúc cu.

thay đổi nội dung bởi: APOLONG, 02-04-2009 lúc 01:01 AM. Lý do: Gộp 2 bài gần nhau
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #14  
Cũ 02-04-2009, 01:02 AM
APOLONG's Avatar
APOLONG APOLONG is offline
Điều Hành Viên
 
Tham gia: 14/11/2008
Họ và tên: Apolong
Bài viết: 677
Xã: Tình khác
Gửi tin nhắn qua Yahoo chát tới APOLONG
Default Trả lời : [Truyện Kinh Dị] - Vũ Điệu Quỷ - [+15]


++++++++++++++++++++++++++


Chương 15

Robin gọi vào lúc bảy giờ để thông báo rằng nàng đang trên đường qua chỗ tôi. Khoảng nửa giờ sau nàng đã có mặt ở cửa, mái tóc u sầu bện kiểu Pháp thả xuống làm nổi bật những ngấn cổ đầy ngọt ngào. Nàng đeo đôi khuyên tai màu đen hình giọt nước mắt, chiếc váy bằng vải bông màu phấn hồng ôm lấy mông. Và trên vai nàng là những chiếc túi kiểu Trung Quốc.
Khi chúng tôi bên nhau trên giường ngủ, tiếng Hoa được sử dụng như những lời nói ám hiệu. Trong những ngày quá khứ tươi đẹp, tôi thích được đưa nàng vào phòng ngủ. Những hai năm xa cách lại khiến bản năng trong tôi trỗi dậy. Tôi đón lấy những cái túi cho nàng và đặt chúng lên bàn ăn, hôn nhẹ lên đôi môi nàng.
Nàng dùng một tay ôm lấy tôi, ghì vào gáy tôi rồi hôn thắm thiết.
Khi cả hai đã ngộp thở, nàng nói:
- Em nghĩ thế này là ổn rồi - không cần ra ngoài đâu nhỉ?
- Ngày hôm nay anh đã ở ngoài quá nhiều rồi.
- Em cũng thế. Đưa Stealths tới khách sạn của những cậu nhóc. Chúng muốn em ở lại với chúng.
- Chúng cảm nhận mùi vị của phụ nữ còn tốt hơn cả âm nhạc ấy chứ.
Nàng cười và lại hôn tôi, rồi đẩy tôi ra và thở rất mạnh.
- Thế là đủ với hoóc-môn rồi rồi - Nàng nói - trước hết để em làm nóng căn phòng lên đã nhé và chúng ta sẽ có cuộc picnic ngay bên trong căn nhà này.
Nàng mang thức ăn vào bếp. Tôi chùn lại và quan sát cái cách mà nàng di chuyển. Gần đây, việc được ngắm nàng đi lại không hề làm tôi mệt mỏi và buồn chán.
Chiếc váy của nàng là sự trình diễn thời trang ngọt ngào - trên cầu vai có nhiều tua thuộc da và đăng ten kiểu cổ. Nàng đi giày cao cổ, tiếng giày dội vang trên nền của căn bếp. Hai bím tóc đu đưa mỗi khi nàng bước. Tôi biết rằng mình đang đắm nhìn không chỉ là bím tóc mà cả những thứ khác ở nàng. Mái tóc ấy ngắn hơn của Cindy Jones và có màu nâu vàng thay vì màu đen xám, nhưng lại khiến tôi nghĩ tới bệnh viện.
Nàng cất những chiếc túi vào tủ đựng đồ và bắt đầu nói điều gì đó, và khi nhận ra tôi đã không theo vào bếp, nàng ngoái lại qua vai nói:
- Có chuyện gì thế Alex?
- Không - Tôi dối nàng - đơn giản chỉ là đang chiêm ngưỡng em mà thôi.
Một bàn tay nàng luồn vào mái tóc và tôi nhận thấy nàng đang lo lắng điều gì. Điều đó lại khiến tôi muốn hôn nàng.
Tôi nói:
- Em trông tuyệt quá!


Nàng nhoẻn miệng cười khiến ngực tôi thắt lại và không thể nhượng bộ vòng tay của nàng. Tôi đi vào trong bếp.

Lúc sau, nàng nói âu yếm:
- Quỷ quyệt!
Nàng đang cố kết những sợi lông ngực tôi lại với đôi đũa.
- Anh cho rằng - Tôi nói - em đang chứng tỏ sự tận tình của em với anh bằng việc đan cho anh một chiế áo len. Chứ không phải biến anh thành một...
Nàng cười.
- Thật là kẻ sành ăn đấy.
- Ngay lúc này, cát ẩm trên món bít tết cũng vẫn tuyệt.
Tôi vuốt ve khuôn mặt nàng.
Đặt đôi đũa xuống chiếc bàn ngay đầu giường, nàng di chuyển sát lại gần hơn. Sườn chúng tôi như dính lại với nhau và tạo nền nhưng âm thanh ướt át. Nàng biến đôi bàn tay mình thành những chiếc tàu lượn và lái chúng trên ngực tôi, vùng da trần nhạy cảm. Lấy tôi làm chỗ dựa cho mình, nàng lại chạm mũi nàng vào mũi tôi, hôn lên cằm tôi. Mái tóc của nàng vẫn bện thành bím. Khi chúng tôi ân ái, tôi thích được cầm lấy bím tóc ấy, luồn ái dây thừng êm ái này vào giữa các ngón tay, và cuối cùng bỏ chúng lại khi tôi không còn kiểm soát được bản thân, bởi tôi sợ sẽ làm đau nàng. Một vài sợi tóc quăn bị tuột ra cù vào mặt tôi. Tôi duỗi thẳng chúng trở lại và rúc vào dưới cằm nàng.
Đầu nàng ngẩng lên. Nàng xoa ngực tôi thêm chút nữa, dừng lại, thăm dò, ngoắc một ngón tay vào một sợi lông ngực và nói: "Hừm".
- Gì vậy em?
- Một cái màu hoa râm - chẳng đẹp tí nào.
- Nhưng đáng kính.
- Đúng thế Alex, nó nghĩa là anh đang trưởng thành.
- Gì đây, uyển ngữ của ngày hôm nay sao?
- Sự thật là, thưa bác sĩ, thời gian không công bằng giữa hai giới tính - Phụ nữ thì bị tàn phá còn đàn ông thì lại càng chín muồi. Thậm chí đàn ông không phải khi trẻ ai cũng khôn ngoan để chủ tâm có được viên đạn thứ hai nếu họ không để chúng ra đi hoàn toàn nhằm tạo giống. Có thể làm sáng tỏ điều này bắt đầu từ những người giống như anh, người đáng kính trọng của em.
Tôi bắt đầu thấy phấn khích.


- Em nói nghiêm túc đấy Alex. Anh có lẽ sẽ có tất cả sự sành sỏi và trí thông minh - như là anh biết hết mọi thứ trên đời vậy.
- Em quảng cáo anh đấy à?
Nàng kiểm tra từng thái dương của tôi, xoay đầu tôi một cách nhẹ nhàng bằng những ngón tay khoẻ mạnh và lùa chúng vào mái tóc tôi.
- Đây là nơi lý tưởng để khởi đầu cho việc nhuộm tóc - Nàng nói với ngữ điệu của một cô giáo - Anh cũng có chỉ số thông minh cao đấy. Hừm, không, em chẳng thấy cái nào cả ngoài một anh chàng nhỏ bé, ở đây.
Đặt một móng tay lên bộ lông ngực, nàng lại chải nhẹ qua cả núm vú của tôi.
- Quá tệ, anh vẫn chỉ là cậu thanh niên non nớt mà thôi.
- Này, cô bé, hai ta cùng tham gia nhé.
Nàng cúi đầu ngược xuống và mỗi lúc một thấp hơn.
- Ồ! Cũng có vài điều phải nói cho cậu con trai non nớt đấy - Nàng nói.
Chúng tôi vào phòng khách và nghe vài băng nhạc mà nàng mang theo, bản Warren Zevon mới như đang mang ánh sáng vào cuộc đời chúng tôi - nó như thể cuốn tiểu thuyết thu nhỏ. Một thần đồng âm nhạc ở bang Texas tên là Eric Johnson đã chuyển soạn bản nhạc này cho đàn ghi ta, nó khiến tôi muốn đốt hết những nhạc cụ của mình đi. Một phụ nữ trẻ tên Lucinda Williams với chất giọng mượt mà điêu luyện và ca khúc trữ tình được cô thể hiện bằng cả tâm hồn mình.
Robin cuộn mình gọn gàng trong lòng tôi, đầu nàng đặt lên ngực tôi, và thở nhè nhẹ.
Khi bản nhạc kết thúc nàng nói:
- Mọi thứ thật tuyệt phải không anh?
- Đúng thế. Nhưng sao vậy em?
- Anh như thể hơi mất trí vậy!
- Không có nghĩa là thật - Tôi nói và băn khoăn không hiểu tại sao nàng lại nói thế.
Nàng đứng dậy và gỡ bím tóc ra. Khi đã gỡ xong, nàng nói:
- Anh có tâm sự gì sao?
- Thật ra không có gì - Tôi nói - Chỉ là công việc thôi mà - một trường hợp khó nhai. Có lẽ anh đã để việc đó chiếm quá nhiều thời gian.
Tôi mong nàng gác lại chuyện ấy và nàng nói với một chút tiếc rẻ:
- Bí mật, phải không?
- Bí mật hạn chế - Tôi nói - Anh là bác sĩ tư vấn và điều này có thể liên quan tới cả hệ thống toà án xét xử.
- Ồ. Thật là tình huống hay.
Nàng vuốt ve khuôn mặt. Và chờ đợi.
Tôi kể cho nàng nghe câu chuyện của Cassie Jones, người đã để lại những cái tên và những đặc điểm nhận dạng.


Khi tôi kết thúc câu chuyện, nàng hỏi:
- Không làm được gì sao?
- Anh sẵn sàng nghe gợi ý - Tôi nói - Milo giúp anh tìm hiểu thông tin cần thiết từ bố mẹ và y tá, và anh đang cố gắng hết sức để có thể dò tìm được tất cả bọn họ. Vấn đề ở đây là, không có manh mối nhỏ thực tế nào cả, chỉ là lập luận, và lập luận thì không có giá trị gì nhiều lắm về phương diện pháp ý. Chỉ một điều mờ mịt, xa xôi là người mẹ nói dối anh về việc chị ta là nạn nhân của một đại dịch cúm khi còn ở trong quân ngũ. Anh đã gọi điện để xác thực thông tin và cuối cùng phát hiện ra ở đó chưa từng có đại dịch nào hết.
- Tại sao chị ta lại nói dối?
- Lý do thực sự là chị ta bị đuổi, vì thế có thể chị ta muốn giấu giếm điều gì đó. Hoặc nếu chị ta là bệnh nhân Munchausen, do vậy mà chị ta chỉ thích nói dối.
- Thật ghê tởm - Nàng nói - Làm sao mà người ta lại có thể làm điều ấy với máu mủ ruột rà của mình cơ chứ. Với bất kỳ đứa trẻ nào đó... Nó sẽ cảm thấy ra sao nếu phải trở lại bệnh viện?
- Thực tế là hơi buồn. Giống như gặp người bạn cũ mà anh ta cũng đang tuột dốc. Nơi đó có vẻ u sầu buồn bã, tiền thì thiếu mà quân thì đi hết - em có nhớ Raoul Melendez-Lynch không?
- Chuyên gia về ung thư chứ gì?
- Ừ, anh ta say mê bệnh viện. Anh đã được chứng kiến anh ấy liên tục bị khủng hoảng, buồn phiền. Thậm chí là ngay cả khi anh ta đi rồi - kiếm công việc khác ở Florida. Toàn các nhà vật lý có thâm niên dường như cũng đã bỏ đi. Những khuôn mặt mà anh gặp ở nơi làm việc đều mới cả, và còn trẻ nữa. Hay là anh đang về già.
- Trưởng thành - Nàng nói - Nhắc lại theo em: trưởng thành.
- Anh cứ nghĩ mình là chàng trai non nớt đấy.
- Trưởng thành và chàng trai non nớt. Điều bí mật về sức quyến rũ của anh.
- Hơn tất cả là, những vấn đề tội phạm đường phố ngày càng lộ rõ hơn. Y tá thì bị đánh đập và ăn cướp... Cách đây hai đêm đã xảy ra một vụ giết người ở bãi đỗ xe, nạn nhân là một bác sĩ.
- Em hiểu. Em có nghe tin này qua đài. Không biết có phải vì anh đang quay trở lại đó làm việc mà em cảm thấy bứt rứt không yên.
- Anh ở đó vào đêm vụ việc xảy ra.
Những ngón tay của nàng đan vào tay tôi, sau đó buông ra.
- Thế là ổn rồi, giờ em đã thấy yên tâm... Nhưng anh vẫn phải cẩn thận đấy, đồng ý với em như thế nhé? Như thể lời nói của em tạo ra một sự khác biệt.
- Ừ, anh hứa.
Nàng thở dài và dựa đầu vài vai tôi. Chúng tôi ngồi lặng im.
- Anh sẽ cẩn trọng - Tôi hứa với nàng - Anh hiểu điều đó mà. Những người đàn ông trưởng thành không có khả năng liều lĩnh.
- Được rồi - Nàng nói.
Một lúc sau:
- Vì thế mà đó là lý do anh buồn. Em nghĩ có thể là do em.
- Em ư? Sao lại thế?


Nàng nhún vai:
- Những thay đổi - mọi thứ đều có thể diễn ra.
- Không đời nào - Tôi nói - Em là điểm sáng của cuộc đời anh.
Nàng sát lại gần hơn và để yên một bàn tay lên ngực tôi.
- Anh từng nói - bệnh viện là nơi u buồn có phải không? Em vẫn luôn nghĩ về bệnh viện theo cách ấy.
- Bệnh viện Nhi đồng miền Tây thì khác, Rob ạ. Nó cần cho sự sống. Mọi thứ hoà hợp với nhau giống như cơ thể tuyệt vời này vậy.
- Em chắc Bệnh viện Nhi đồng miền Tây là như vậy, Alex ạ - Nàng nói êm ái - Nhưng bất kể cho nó là một bệnh viện cần cho sự sống như thế nào hay chu đáo ra sao thì nó vẫn luôn sẽ là nơi của cái chết, phải thế không? Mỗi khi nói tới từ "bệnh viện", điều xuất hiện trong đầu em là bố. Bố nằm ở đó, toàn bộ cơ thể ông bị gắn ống, kim tiêm và bất lực. Mẹ gào lên gọi y tá mỗi khi ông rên la vì đau đớn, nhưng không ai thực sự quan tâm cả... Thực tế là bệnh viện của anh chữa trị cho lũ trẻ, em nghĩ nó còn tồi tệ hơn bởi vì còn gì tồi tệ hơn khi lũ trẻ phải trải qua những cơn đau đớn? Em không thể hiểu được làm sao anh lại có thể ở đó lâu đến thế.
- Hãy tạo cho mình cái vỏ bọc vững chắc đi - Tôi nói - Chỉ nên để tình cảm xen vào công việc đủ để em có ích cho bệnh nhân. Giống như việc quảng cáo kem đánh răng vậy. Tạo ra cái vỏ bọc vô hình.
- Có thể điều đó thực sự đang làm phiền anh, quay trở lại vấn đề này nhé, sau vài năm nữa cái vỏ bọc của anh, không còn nữa.


- Có thể là em đúng - Tôi tỏ vẻ cau có.
- Vâng, em hơi tâm thần đấy - Nàng nói.
- Không, không. Nói về chuyện đó thì thật là tuyệt đấy chứ.
Nàng lại rúc vào tôi.
- Điều anh nói thật ngọt ngào, điều đó liệu đúng hay không. Và em rất vui vì anh đã nói cho em những suy nghĩ của anh. Anh thường chẳng bao giờ nói nhiều về công việc của mình cả. Mấy lần em đã thử gợi chuyện, anh lại chuyển chủ đề ngay. Vì vậy có thể nói là anh không thấy thoải mái khi nói về công việc của mình và em có bao giờ ép anh nói ra đâu. Em hiểu một phần công việc của anh là bí mật, nhưng em thực sự không muốn đi sâu vào chi tiết, Alex ạ. Em chỉ muốn biết anh đng phải chịu đựng những gì để em có thể chăm sóc cho anh. Em đoán là anh đang bảo vệ em.
- Có thể là anh phải chịu đựng - Tôi nói - Nhưng nói ra sự thật, thực sự anh chẳng bao giờ biết em muốn nghe.
- Tại sao lại như thế?
- Em như thể luôn hứng thú hơn với - anh có thể nói như thế nào nhỉ - với những góc và mặt phẳng.
Nàng khẽ cười.
- Vâng, anh nói đúng. Em chưa bao giờ cảm thấy tự ái cả. Thực tế là, lần đầu tiên chúng ta gặp nhau, một điều mà em không chắc là em thích về anh lại là anh là bác sĩ tâm lý. Không phải điều đó đã cản trở em theo đuổi anh, nhưng nó khiến em ngạc nhiên - Em lại bị một bác sĩ tâm thần mê hoặc. Em không biết tí gì về tâm lý cả, thậm chí em còn chẳng tham dự khoá học nào về nó trong trường đại học. Có thể là bởi vì cha em. Ông luôn chỉ trích các chuyên gia về tâm thần học điên khùng, những ông bác sĩ không thẳng thắn. Tiếp đến là vè ai đó không làm việc bằng đôi tay của mình thì không thể là người thẳng thắn thật thà. Nhưng khi em biết anh và chứng kiến anh đã nghiêm túc thế nào với công việc của mình, em mới thấy thư thái. Em đã cố gắng học - thậm chí em còn đọc một vài cuốn sách về tâm lý, anh có biết không?
Tôi lắc đầu.
Nàng mỉm cười.
- Ban đêm, em thường lẻn vào trong thư viện trong khi anh đang ngủ. Cuốn sách về những kế hoạch tăng cường. Lý luận nhận thức đó là những thứ lạ lẫm tuyệt vời cho một người đốn gỗ như em.
- Thế mà anh chẳng biết gì cả - Tôi nói giọng kinh ngạc.
Nàng nhún vai:


- Em chẳng biết tại sao. Không phải là em đang cố gắng để trở thành chuyên gia hay một cái gì đó. Chỉ đơn giản là em muốn gần anh hơn. Chắc là em đã không gửi đi một thông điệp rõ ràng... không đủ cảm thông. Em nghĩ là, hy vọng chúng ta có thể tiếp tục theo cách này. Hãy để cho chúng ta có thể hoà hợp với nhau hơn một chút.
- Chắc chắn là thế rồi - Tôi nói với nàng - Anh chẳng nghĩ là em không cảm thông, mà chỉ là...
- Lo lắng? Tự kỷ ám thị phải không?
Nàng ngước nhìn tôi với nụ cười như muốn đốt cháy ***g ngực tôi, để lộ những chiếc răng hàm trên trắng bóng. Tôi thích liếm vào những cái răng ấy.
- Tập trung cao độ -Tôi nói - Em là một trong những người có óc sáng tạo nghệ thuật. Cần tới sự tập trung cảm xúc mạnh.
- Tập trung cao độ à?
- Chính xác là thế đấy.
Nàng cười vang:
- Chúng mình thực ra là có một thứ chung đấy, bác sĩ Delaware của em ạ. Có lẽ đó là một chất hoá học - chất pheromones hay là chất gì đó.
- Đúng, đúng em ạ.
Nàng tựa đầu vào ngực tôi. Tôi vuốt mái tóc nàng và nghĩ về việc nàng vào trong thư viện đọc những cuốn sách của tôi.
- Chúng mình có thể thử lại không? - Tôi hỏi - Em sẽ trở lại phải không?
Nàng trở nên căng thẳng:
- Vâng - Nàng nói - Chúa ơi, vâng.
Nàng đứng lên, hai bàn tay ôm lấy khuôn mặt tôi và hôn. Nàng trườn lên tôi, cưỡi lên tôi, cánh tay nàng quàng xuống qua vai tôi, ghì chặt.
Tôi đưa tay qua lưng và ôm lấy hông nàng. Tôi nâng mình lên trên nàng. Chúng tôi lại hợp nhất với nhau, cuốn lấy nhau, yên tĩnh và mải mê.
Sau đấy nàng ngả mình nghỉ ngơi. Tôi cũng phải thở dốc một lúc.
Tôi xoay người sang bên và ôm lấy nàng. Nàng ép bụng nàng vào bụng tôi, gắn chặt vào tôi.
Chúng tôi bên nhau một lúc. Khi nàng bắt đầu trở nên bồn chồn, nàng vẫn luôn như thế, và bắt đầu rời đi. Tôi không để nàng đi.




+++++++++++++++++++++++++



chương 16

Robin ở lại đêm đó, và như thường lệ, nàng dậy sớm. Điều không giống như mọi khi đó là nàng dành một giờ nữa để uống cà phê và đọc báo. Nàng ngồi bên tôi ở bàn, một bàn tay đặt trên gối tôi, hoàn thành phần còn lại của bức vẽ trong khi tôi đọc lướt qua mục tỉ số thể thao. Sau đó, chúng tôi lại chỗ cái ao và ném những mẩu bánh mỳ nho nhỏ cho cá ăn. Hơi ấm mùa xuân đến sớm, bao phủ lên luồng gió biển và không khí có vẻ như là của một kỳ nghỉ hè vậy.
Thứ bảy, nhưng tôi lại cảm thấy muốn làm việc.
Nàng vẫn bên tôi. Chúng tôi gần nhau rất nhiều nhưng dấu hiệu bồn chồn của nàng bắt đầu xuất hiện: cơ uốn éo, thỉnh thoảng liếc nhìn, đối thoại ngập ngừng, đứt quãng - điều mà chỉ người yêu hay người mắc bệnh hoang tưởng mới nhận thấy.
Tôi nói với nàng:
- Em bận hay có kế hoạch gì à?
- Em đang dở chút việc. Thế còn anh?
- Anh cũng thế. Ngày hôm nay anh có ý định tới bệnh viện.
Nàng gật đầu, choàng hai cánh tay quanh eo tôi, và chúng tôi ôm lấy nhau, đi bộ vào nhà. Sau khi nàng lấy ví, chúng tôi đi tới bãi đỗ xe.
Một chiếc xe tải mới được để cạnh chiếc Seville. Chiếc xe tải Chevy màu xanh da trời của hãng Royal có một sọc trắng dọc thành xe. Phiếu đăng kiểm dán ở trên tấm kính chắn gió.
- Tuyệt đẹp - Tôi thốt lên - Em có nó khi nào vậy?
- Hôm qua. Chiếc Toyota động cơ bị hỏng nặng và em ước tính là mình đã đi được khoảng một, hai nghìn kilômét, nên em đã tự đối đãi tốt với bản thân đấy.
Tôi cùng Robin thả bộ tới chiếc xe tải.
Robin nói:
- Nếu bố còn sống chắc ông sẽ thích nó. Ông luôn ưa thích chiếc Chevy - cho dù nó không có nhiều công dụng lắm. Khi lái chiếc xe khác, thỉnh thoảng em có cảm giác bố đang nhìn qua vai em, quắc mắt và kể câu chuyện Iwo Jima.
Nàng vào xe, để cái túi xách lên chiếc ghế của khách và thò mặt ra cửa sổ để hôn tôi.
- Tuyệt - Nàng nói - Hãy sớm làm lại việc ấy nhé, anh yêu. Nhắc lại xem tên anh là gì? Flix phải không? Hay Ajax?
- Mr.Clean.
- Thật ra là thế nào - Nàng nói, cười vang và lái chiếc xe đi.

[ Tự động gộp bài ]
Tôi nhắn tin cho Stephanie, và nhân viên tổng đài đáp rằng bác sĩ Eves sẽ gọi lại. Tôi chờ máy, lôi ra cuốn Thomas Guide (Thomas hướng dẫn), và xác định địa chỉ của Dawn Herbert trên phố Lindblade. Tôi vừa mới xác định xong địa chỉ thì điện thoại reo.
- Steph đấy hả?
- Không, Milo đây. Tôi có cắt ngang gì không đấy?
- Chỉ là tôi đang đợi một cuộc gọi lại từ bệnh viện thôi.
-Và tất nhiên anh không có được cuộc gọi mong đợi rồi.
- Tất nhiên là thế.
Milo khịt mũi một tiếng dài như tiếng khịt của ngựa, lại bị loa của của điện thoại khuếch đại thành ra nghe như tiếng sấm.
- Thế anh đã thay cái đèn dầu bằng chiếc đèn điện của Edison chưa?
- Nếu Chúa đã muốn con người có điện, thì ngài sẽ đưa cho chúng ta những bình ắc quy.
Anh cười hô hố:
- Tôi đang ở Trung tâm. Gọi cho tôi ngay khi anh kết thúc cuộc gọi với Steph.
Anh ta gác máy. Tôi đợi thêm mười phút nữa thì Stephanie mới gọi tới.
- Chào Alex - Cô hỏi - Có việc gì thế?
- Tôi đang hỏi cô câu ấy đây.
- Có gì to tát đâu. Tôi gặp cô bé cách đây khoảng một giờ - Nó đang cảm thấy khá hơn rồi - tỉnh táo, cảnh giác và thét lên khi thấy tôi.
- Có tin gì mới về sự hạ đường huyết không?
- Người ta nói là không có vấn đề gì liên quan tới sự trao đổi chất cả, tuyến tuỵ của cô bé cũng đã được kiểm tra kỹ - hoàn toàn chẳng có vấn đề gì cả - và thế là mọi người lại quay sang kết luận là chứng Munchausen, vậy là có lẽ tôi phải quay lại từ đầu mất thôi.
- Cô dự định giữ con bé lai bao lâu?
- Hai hoặc ba ngày gì đó, sau đó sẽ để cô bé về nhà, nếu không có chuyện gì xảy ra. Tôi hiểu rằng thật nguy hiểm khi để cô bé đi, nhưng tôi có thể làm gì được đây, chuyển bệnh viện thành nhà nuôi dưỡng cô bé hay sao? Hay anh có gợi ý gì không?
- Không.
- Anh biết không, tôi thực sự nghĩ rằng đó chính là do vấn đề về trao đổi chất.
- Đừng tự gồng mình lên thế. Đó là một ca điên khùng. Thế còn Cindy và Chip thì phản ứng thế nào về cái nguyên nhân chưa xác định được chắc chắn này?

[ Tự động gộp bài ]
- Tôi chỉ trông thấy Cindy thôi. Vẫn cam chịu âm thầm như thường lệ.
Nhớ lại lời bình phẩm của Al Macauley, tôi hỏi Steph:
- Có thấy nụ cười nào không?
- Cười á? Không. Ồ, anh muốn nói tới sự rộng lượng mà chị ấy thỉnh thoảng vẫn thể hiện ấy à? Không. Không phải sáng nay. Alex, tôi phát ốm lên về trường hợp này rồi, để cho cô bé về thì khác nào kết án tử hình nó?
Chẳng biết an ủi thế nào tôi đành nói:
- Thì ít nhất để Cassie về nhà sẽ cho tôi cơ hội tới nhà thăm cô bé.
- Trong khi anh ở đấy, tại sao không thử tìm kiếm chút manh mối gì đó?
- Ví dụ xem nào?
- Những cây kim ở trong ngăn kéo tủ, thuốc insulin trong tủ lạnh. Tôi đang nói đùa ư - không, thực ra tôi chỉ nói đùa một nửa thôi. Tôi đang sắp phải đối mặt với Cindy đấy, hãy khiến cho gia đình Chips phải chịu thua. Lần sau nếu cô bé lại ốm, tôi có thể sẽ làm thế, và nếu họ phát khùng lên và tới nơi khác chữa, ít nhất thì tôi cũng sẽ biết rằng tôi đã làm mọi điều có thể - Ồ tiếc quá, tôi có tin nhắn, tôi phải đi đây Alex anh. Gọi lại cho tôi khi anh biết thêm điều gì đó, được không?
Tôi điện thoại lại cho Milo:
- Làm việc cả những ngày cuối tuần à?
- Tôi đã có cuộc trao đổi với Charlie. Vào những ngày thứ bảy thì tôi sẽ trực để kiếm thêm công việc ngoài giờ. Thế Steph thì sao rồi?
- Không phải bệnh về thể chất, lại bị quy về chứng Munchausen. Chẳng ai tìm ra lý do về thể chất nào cho việc giảm lượng đường huyết cả.
- Tệ thật. Trong khi chờ đợi, tôi đã có được vài thông tin về Reggie Bottomley, cậu quý tử hư hỏng của bà y tá. Cậu ta chết khoảng hai năm nay rồi. Vì lý do nào đó mà tên của cậu ta không có trong hồ sơ lưu trữ về bệnh án. Có thể là tự sát.
- Sự thể là thế nào?
- Cậu ta vào buồng tắm, cởi quần áo, ngồi xuống bệ xí, hút thuốc phiện, thủ dâm. Sau đó thì dùng súng bắn nát đầu. Thật ghê tởm quá. Một nữ thám tử - tên là Tujunga, thực ra tên là Dunn - nói Vicki ở nhà khi việc đó xảy ra, đang xem tivi ở phòng bên.
- Trời đất!

[ Tự động gộp bài ]
- Ừ. Cả hai bọn họ đã lời qua tiếng lại với nhau về lối sống buông thả của Reggie và thằng bé phát khùng lên, nó lôi đồ nghề trong tủ quần áo ra và cả súng nữa, khoá trái cửa, nhốt mình trong nhà xí, và nổ sung. Bà mẹ nghe thấy tiếng súng, nhưng không thể vào mở được cửa, bà ta cố gắng dùng một cái rìu và bất lực. Người ta thấy bà ta ngồi trên nền nhà, khóc, gào lên thuyết phục thằng bẻ anh ngoài. Người ta phá cửa và khi trông thấy sự việc đau lòng đó, họ đã cố gắng ngăn không cho bà mẹ trông thấy. Nhưng bà ấy đã nhìn thấy rồi. Sự kiện đó có thể giải thích về sự trầm tĩnh của bà mẹ.
- Có điều gì đó cần xem xét kỹ. Có điều gì về lịch sử gia đình dẫn tới vụ tự sát này không?
- Dunn nói trước đó chẳng có sự xúc phạm trẻ em nào cả - Cô ấy thấy về cơ bản đó là người mẹ tuyệt vời với đứa con hư hỏng, và bà ấy đã dành rất nhiều thời giờ cho Reggie, rất hiểu cậu bé.
- Thế còn người cha thì sao?
- Đã chết khi Reggie còn nhỏ. Tay nghiện rượu nặng, giống như anh đã nói. Ngay sau đó thì Reggie đã gặp rắc rối với cảnh sát, cậu ta sử dụng rồi chuyển sang buôn bán ma tuý. Dunn mô tả cậu ta như một tên ngớ ngẩn, gầy trơ xương, không có khả năng học tập, không thể có được một công việc. Còn là tên tội phạm bất tài - mỗi lần phạm tội hắn đều bị bắt, nhưng trông quá tội nghiệp đến nỗi mà quan toà dễ tính thường xử nhẹ tội cho. Cậu ta không còn hung bạo nữa cho tới gần cái ngày kết liễu cuộc đời - một vụ ẩu đả. Và thậm chí đó chỉ là vụ xô xát trong quán bar thôi. Cậu ta dùng một cây gậy bi-anh đánh vào đầu kẻ kia. Dunn nói rằng Reggie ngày càng trở nên nghiện ngập. Cái chết với hắn chỉ là vấn đề thời gian sớm hay muộn mà thôi. Theo như lời của cô ấy, bà mẹ đã chịu đựng quá lâu rồi, đã gồng mình hết sức rồi. Kết thúc của câu chuyện là thế. Câu chuyện có nói cho anh điều gì về bà mẹ như một đối tượng tình nghi không?
- Không, thật sự là không. Dẫu sao thì cũng xin cảm ơn anh.
- Thế bước tiếp theo là gì?
- Thiếu mọi thứ, tôi cho là nên có cuộc viếng thăm với Dawn Herbert. Tôi đã nói chuyện với vợ của Ashmore hôm qua, và cô ấy nói rằng ông ta thường thuê những sinh viên đã tốt nghiệp đại học. Vì vậy mà có thể Herbert có đủ hiểu biết để hiểu Ashmore đang tìm kiếm cái gì trong biểu đồ của Chad.
- Vợ của Ashmore à? Anh định làm gì thế, chi tiền cho một cuộc gọi buồn chán à?
- Đúng thế. Một phụ nữ tuyệt vời. Ashmore là người bạn khá thú vị.
Tôi kể cho anh về đôi ba lần tới Sudan, về hệ thống sòng bạc của Ashmore và những vụ đầu tư.
- Dùi cui của cảnh sát hả? Ắt hẳn phải rất thú vị.

[ Tự động gộp bài ]
- Cô ấy bảo ông ta là thiên tài toán học - phù thuỷ máy tính. Đạt đai nâu vài môn võ thuật cổ truyền. Chính xác là ông ta không dễ bị những tên giết người hạ gục đâu.
- Không dễ ư? Tôi biết anh từng học môn võ thuật tuyệt vờ ấy, và tôi không muốn làm anh vỡ mộng, nhưng tôi đã thấy nhiều tay võ sĩ dùng những miếng sắt ở đầu ngón chân. Nó là một thứ được dùng trong môn võ nào đó có tên là dojo, khom lưng, nhảy vòng quanh và gào thét như thể có một cái đinh trong ruột vậy. Nhưng khi trên đường phố thì sự việc lại hoàn toàn khác. Tình cờ tôi đến phòng cảnh sát Hollywood để lấy thông tin về vụ sát hại Ashmore thì họ cho rằng đây là vụ rất khó có khả năng giải quyết được. Hy vọng là bà quả phụ ấy không đặt hết hy vọng vào luật pháp.
- Bà quả phụ ấy vẫn bị lụât pháp làm cho mê mẩn.
- Ừ...
- Gì thế?
- Ừ, tôi cũng đã suy nghĩ khá nhiều về vụ của anh - thứ tâm lý của toàn bộ cái gọi là chứng Munchausen - và tôi cho là chúng ta đã bỏ sót một nghi phạm tiềm năng.
- Ai thế?
- Cô bạn thân Steph của anh ấy.
- Stephanie ư? Sao lại thế được?
- Một phụ nữ có kiến thức về y học, thích quyền lực, muốn trở thành trung tâm của mọi việc.
- Tôi chẳng bao giờ nghĩ cô ấy là trung tâm của việc tìm kiếm đầu mối.
- Không phải anh đã từng nói với tôi rằng cô ta là người có quan điểm cực đoan về quá khứ, về chủ tịch hiệp hội các bác sĩ thực tập nội trú đấy chứ?
- Chính xác là thế, nhưng cô ấy có vẻ như rất chân thành. Một người theo chủ nghĩa duy tâm.
- Có thể. Nhưng hãy xem: cái cách cô ấy chữa trị cho Cassie khiến cô ấy trở thành nhân vật trung tâm đáng chú ý, và đứa bé càng ốm yếu thì Stephanie càng là người nổi bật. Và những thay đổi bất thình lình trong việc kết luận bệnh của cô ta - hôm nay là Munchausen, hôm sau lại là các bệnh về tụy, rồi lại trở về Munchausen. Anh bảo thế không điên lên sao được?
Tôi hiểu toàn bộ những sự việc đó.
- Có thể là có lý do nào đó khiến đứa bé nổi khùng lên mỗi khi cô ấy khám cho nó, Alex ạ.
- Nhưng cứ theo logic ấy áp dụng với cô bé như đã áp dụng với Vicki - Tôi nói - Cho đến tận lần nổi đoá cuối cùng này, toàn bộ rắc rối của Cassie bắt đầu từ nhà cô bé. Vậy làm sao mà Stephanie có thể liên quan tới việc này được?
- Thế cô ta từng tới nhà của cô bé chưa?
- Một hai lần gì đó để đặt máy gây ngủ.
- Rồi, cuối cùng việc này là thế nào chứ gì? Rắc rối trước tiên cô bé gặp là bệnh về thanh quản hay đại loại cái gì đó liên quan tới thanh quản. Stephanie chữa trị cho cô bé và thấy rằng vai trò bác sĩ của đứa cháu gái Chủ tịch là một cú hích. Một cuộc du ngoạn quyền lực - Anh đã chẳng nói với tôi rằng cô ấy có ý định trở thành trưởng khoa là gì.

thay đổi nội dung bởi: APOLONG, 02-04-2009 lúc 01:07 AM. Lý do: Gộp 2 bài gần nhau
Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời


Ðang đọc: 1 (0 thành viên và 1 khách)
 

Quuyền Hạn Của Bạn
Bạn không thể tạo chủ đề mới
Bạn không thể gửi trả lời
Bạn không thể gửi files đính kèm
Bạn không thể sửa bài của bạn

BB code is Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt

Chuyển đến

Chủ đề liên quan
Ðề tài Người Gửi Chuyên mục Trả lời Bài mới
[Hot teen] [Truyện Ma Kinh Dị] - Giếng Thở Than - [+16] APOLONG Teen Yên Thành 27 31-03-2009 09:39 PM
[Hot teen] [Truyện Ma Kinh Dị] - Lưỡi Dao Bị Nguyền Rủa - [+15] APOLONG Teen Yên Thành 8 29-03-2009 08:28 PM


Hiện tại là 12:13 AM (GMT +7)


Diễn đàn Người Yên Thành Online
Nội dung được các thành viên xây dựng và tổng hợp
Powered by vBulletin® Copyright ©2000 - 2024, Jelsoft Enterprises Ltd.