Trở về   Yên Thành Online > Khu vui chơi giải trí, giao lưu gặp mặt > Teen Yên Thành

Chào mừng bạn đến với Yên Thành Online.
»» Diễn đàn Người Yên Thành được xây dựng để tạo một gặp gỡ online cho tuổi trẻ Yên Thành, xa quê cũng như đang ở nhà. Mục đích chính là giúp mọi người hiểu biết thêm về Yên Thành, thêm yêu Yên Thành hơn, cũng như để anh chị em ở xa vơi đi phần nào nỗi nhớ nhà

»» Diễn đàn hiện nay mới đang trong thời gian thử nghiệm và phát triền nội dung, vì vậy rất cần sự đóng góp tài liệu, bài vở và ý kiến từ anh chị em và các bạn. »>Nhấn vào đây để bắt đầu tham gia và đóng góp


Diễn đàn đã ngưng hoạt động từ lâu.
Anh chị em có nhu cầu kết nối có thể tham gia group Yên Thành & những người thân trên Facebook.

Trả lời
 
Ðiều Chỉnh Xếp Bài
  #16  
Cũ 30-03-2009, 01:36 PM
APOLONG's Avatar
APOLONG APOLONG is offline
Điều Hành Viên
 
Tham gia: 14/11/2008
Họ và tên: Apolong
Bài viết: 677
Xã: Tình khác
Gửi tin nhắn qua Yahoo chát tới APOLONG
Default Trả lời : [Truyện Ma Kinh Dị] - Giếng Thở Than - [+16]

Nó là một mê cung của những cây thủy tùng, hình vòng tròn, các hàng rào cây lâu ngày không tỉa xén, mọc xum xuê tùm lum cao vọt lên theo một chiều rộng cũng như chiều cao vô cùng phi chính thống. Các đường đi hầu như tắc nghẽn hết. Chỉ còn cách lao vào thục mạng bất chấp bị chà xước, bất chấp các cây tầm ma châm vào da thịt, bất chấp ẩm ướt, Humphreys mới mở được đường. Tuy nhiên, dù hoàn cảnh khó khăn mấy anh vẫn tin thế nào cũng quay ra được vì đường vào để lại vết tích rất rõ. Từ xưa tới nay anh chừa vào một mê cung nào, vậy là lúc này đây anh đã có dịp bổ sung thiếu sót. Sự ẩm ướt tối tăm của nó cũng mùi cỏ lý gia, cành tầm ma bị giẫm nát chỉ là những điều thú vị chứ không có gì khác. Chưa thấy cái gì là rối ren phức tạp cả. Anh đã vào gần tới trung tâm của mê cung (tại sao vẫn chưa thấy ông Cooper đâu), chẳng hề để tâm mình đã đi theo con đường nào. Ái chà! Trung tâm đây rồi! Vào được cũng dễ thôi. Ở đây có một phần đường cho anh. Lúc đầu anh cư tưởng vật trang trí ở trung tâm là một chiếc đồng hồ mặt trời, nhưng khi anh vạch hết các cành mâm xôi và bìm bìm ra, anh thấy nó không phải một vật trang trí bình thường. Một cột đá cao khoảng một mét hai, trên là một quả cầu kim loại – có lẽ bằng đồng vì phủ lớp gỉ đồng màu xanh – có chữ khắc vào đó, cả hình nữa, ở vòng ngoài, mà khắc rất đẹp là đàng khác.
Thoáng nhìn vào các hình đó Humphreys nghĩ ngay đến một trong những thứ bí ẩn mà người ta gọi là thiên cầu [1] từ đây chưa ai moi ra được thông tin nào về thiên đàng cả. Tuy nhiên vì tối quá – có lẽ do ở trong mê cung – anh chưa nhìn kỳ được cái vật kỳ lạ này, hơn nữa anh đã nghe tiếng ông Cooper, vang to như tiếng voi trong rừng rậm. Humphreys gọi ông ta đi theo lối anh đã mở, chẳng mấy chốc anh ta tới nơi, thở hổn hà, hổn hển, xin lỗi tới tấp vì đến muộn vì không tìm được chìa khóa. "Nhưng đây này!" ông nói "chẳng khác gì tục ngữ nói, ông đã vào tới trong lòng của bí ẩn mà không cần giúp đỡ hay rèn luyện. Tôi cho là đã ba, bốn mươi năm nay chưa từng có bước chân người vào đây. Tôi cũng chưa đặt chân vào tới khu cây cối tường rào bao quanh như thế này. Này ông, có câu tục ngữ thế nào ấy nhỉ, về việc thiên thần cũng không dám bước chân tới ấy? Trường hợp này càng chứng tỏ câu ấy đúng" Quá quen biết với Ccoper, tuy chưa bao lâu, Humphreys tin rằng ông ta không có ý ám chỉ gì xấu, trước nhận định ấy anh chỉ im, anh đề nghị nên vào nhà dùng chén trà muộn và để Coper có thì giờ đi chơi buổi tối như đã hẹn. Họ rời mê cung, hầu như dễ dàng trở ra theo lối ban nãy đã vào.
Humphreys hỏi khi họ trên đường về nhà "Ông nghĩ sao về việc chú tôi khóa khu vực này cẩn thận đến thế?"
Cooper thẳng người lên, Humphreys cảm thấy ông ta sắp sửa thổ lộ điều gì "Chắc hẳn tôi làm ông thất vọng, nhưng tôi chẳng biết tí gì cả. Hồi mới vào làm cho cụ, mười tám năm trước đây, mê cung này giống hệt như bây giờ, lần duy nhất nghe nói đến là như ông mới nghe con gái tôi nói ban sáng. Phu nhân Wardrop – tôi không có gì chê bai bà ta cả - viết thư xin phép vào mê cung. Chú của ông đưa tôi xem thư – thư rằng lịch sự - về phía bà ta không thể đòi hỏi gì hơn. Cooper cụ bảo ông thay mặt tôi trả lời thư này “Thưa vấng tôi đã quen làm cả thư ký cho cụ, nhưng trả lời như thế nào ạ?” “Gửi lời chào phu nhân, nói với bà giá như phần đất này do tôi chịu trách nhiệm, tôi sẽ mời bà ta vào thăm ngay, đằng này nó đóng chặt từ bao giờ rồi, xin bà đừng yêu cầu, tôi xin cảm ơn nhiều Đó là lời cuối cùng của cụ về cái mê cung ngày. Tôi chẳng còn gì để nói. “Trừ phi” Cooper nói thêm sau một lát “Có thể, như tôi đoán thôi, cụ không ưa gì (ai chẳng có cái mà mình ghét) kỷ niệm về ông nội cụ, người đã cho lập nên cái mê cung đó. Cụ cố khá kỳ quặc, và đi du lịch nhiều ghê lắm. đến kỳ Sabbah [2] này, ông có muốn xem bài vị của cố đặt ở nhà thờ giáo khu, sau khi cố chết ít lâu, thì xem”.


“Ồ, một người có cái thị hiếu xây dựng mê cung như vậy hẳn thích xây cho mình một lăng tẩm riêng”.
“Không hẳn như ông nói đâu, tôi không tin di hài cụ nằm tại nơi đó, trong hầm mộ gia đình đâu! Kể cũng lạ. Tôi đâu đủ cương vị nói với ông chuyện này! Với lại, sau rốt thì, ông Humphreys ạ, có gì là quan trọng, cái nơi chôn cất hình hài của thi thể ta ấy, phải không ạ?”
Đến đây họ vào nhà, ức đoán của Cooper bị ngắt quãng.
Trà được dọn trong thư viện. Cooper lại nói về đề tài phù hợp với nơi này “Thật là một bộ sưu tập sách tuyệt vời! Toàn quyển hay nhất đấy, những người sành sỏi ở vùng này đều bảo thế. Tôi còn nhớ có lần chú ông cho tôi xem một quyển toàn tranh các thành phố ngoại quốc, hấp dẫn lắm, phong cách hạng nhất hết. Có một quyển sách viết tay, mực tươi như vừa được viết hôm qau, cụ bảo đó là di phẩm của một thầy tu nhiều trăm năm trước đây. Bản thân tôi cũng rất quan tâm đến văn học. Chẳng còn gì thú vị bằng sau một ngày làm việc nặng nhọc được đọc sách một giờ đồng hồ, còn hơn phí thời gian tán dóc ở nhà bạn bè suốt buổi tối – À thôi chết, nhớ ra rồi, tôi phải về đây, không vợ tôi lại mè nheo, để đi phung phí thời gian kiểu đó ở nhà bạn bè tối nay! Tôi phải về ngay, ông Humphreys ạ”
“Và tôi cũng nhớ ra" Humphreys nói "nếu ngày mai tôi muốn đưa cô Cooper đi xem mê cung, thì ta phải phát quang đi một chút. Ông bảo ai đó đến làm việc này được không?”
“Được chứ ạ. Sáng mai vài người dùng liềm và phát quang thành con đường mòn ngay ấy mà, để bây giờ qua ông gác công viên tôi sẽ dặn lại, ông khỏi phải tự mình dùng gậy rẽ cây, họ cũng nên đánh dấu đường vào, cắm gậy hay đặt cuộn dây theo chân họ để lúc ra cho dễ”.
“Ý ông hay quá, xin ông làm việc ấy cho, tôi xin chờ bà và cô Cooper chiều mai, còn ông, mườ giờ rưỡi đúng”.
“Rất vinh hạnh. Cả vợ và con tôi, và tôi. Xin chào ông, Humphreys. Chúc ông ngủ ngon”.

Humphreys ăn bữa tôi lúc tám giờ. Vì là buổi tối đầu tiên ở đây, hơn nữa Calton có vẻ muốn chuyện trò, anh cũng vừa đọc xong quyển truyện mua dọc đường, đành ngồi nghe và trả lời Calton ít câu về hàng xóm láng giềng, mùa trong Nam. Mùa thì năm nay hợp thời tiết, hàng xóm thì thay đổi đáng kể - cũng chẳng có hại gì – Calton cả thưở nhỏ sống ở đây. Cửa hiệu của làng thì đặc biệt tiến bộ kể từ năm 1870. Nay mua được ở đó khối thứ, rất tiện, ngộ nhỡ đột xuất cần thứ gì thì Calton có thể chạy xuống đó (nếu như cửa tiệm còn mở) để đặt mua, khỏi vay của nhà mục sư. Ngày xưa chỉ mua được nến, xà phòng, nước mật đường. Sách tranh cho trẻ con giá một xu, mà chín trên mươi lần thứ người ta nên yêu cầu là rượu Whisky kia. Nhìn chung, Humphreys thấy trong tương lai anh phải chuẩn bị một quyển sách.


Thư viện đúng là nơi để phục vụ cho những giờ buổi tôi sau bữa ăn. Tay cầm nến, miệng ngậm tẩu, anh đi đi lại lại trong phòng một lúc, xem đầu đề các cuốn sách. Anh có khuynh hướng ưa thích thư viện cổ, đây chính là dịp để anh làm quen một cách hệ thống với một thư viện như thế, vì anh được biết qua Cooper là không có catalog, trừ một catalog sơ sài, mục đích để chứng thực di chúc, giờ đây lên một catalog hợp lý là cách tiêu thì giờ thú vị cho mùa đông. Có thể tìm ra kho tàng sách cổ cũng nên, biết đâu có cả bản thảo viết tay, như ông Cooper nói.
Đi khảo sát một vòng như thế anh nhận thức ra (cũng như đa số chúng ta trong trường hợp ấy) phần lớn bộ sưu tập sách của chú anh là không thể nào đọc nổi. "Nhà xuất bản Cổ văn và các Cha, Các Nghi thức Tôn giáo của Picart, Tạp Văn của Harleian, cứ cho là rất hay đi, nhưng ai mà đọc Tostatus Abulensis, hoặc Pineda on Job,hoặc quyển nào đại loại như vậy?" Anh nhặt lên một quyển sách nhỏ, giấy khổ bốn, bìa đã long, các chữ nhãn đã rơi ra hết. Nhớ ra tách cà phê đang chờ, anh ngồi vào một chiếc bành rồi mở sách ra. Những lời anh kết tội nó hoàn toàn dựa trên cơ sở bề ngoài. Theo anh nghĩ hẳn đây phải là một tập các vở kịch độc nhất vô nhị, nhưng nhìn bên ngoài thấy trống trơn, có vẻ lạnh lẽo và đầy đe doạ.
Thực tế quyển sách gồm toàn những bài thuyết pháp, những suy tưởng, trang đầu đã bị xé mất, hình như thuộc nửa sau thế kỷ mười bảy. Lật các trang, mắt anh bắt gặp một lời ghi chú bên lề "Một chuyện ngụ ngôn cho Hoàn cảnh bất hạnh này", tác giả thật giàu trí tưởng tượng trong sáng tác. Đoạn này viết "Tôi đã nghe hoặc đọc được ở đâu đó, không hiểu là Truyện Ngụ ngôn hay Chuyện Kể, tuỳ độc giả phán xét, về một Người Đàn Ông giống như Theseus [3] trong Attick Tale muốn tự mình phiêu lưu vào một mê cung. Loại mê cung không được thiết lập theo kiểu của các nghệ sĩ Topiary thời bây giờ, mà theo một phạm vi rộng hơn nhiều, có cả hầm bẫy hay nói cách khác những thứ mang điềm xấu thường ẩn núp rất kỹ, gặp hay không là tùy may rủi. Người Đàn Ông không muốn nghe lời khuyên can của bạn bè. Một người Anh bảo "Xem kìa, một người đã đi vào đó, không theo lời khuyên của mọi người, thế là không ai còn nhìn thấy anh ta nữa! một người Mẹ nói "Một người khác chỉ đi vào trong đó một đoạn đường ngắn, lúc ra mất hết cả trí khôn, không kể lại được đã trông thấy cái gì, ban đêm ngủ không yên" Một người láng giềng thì kêu lên “Anh không nghe kể về những bộ mặt như thế nào đã nhìn từ qua hàng rào sắt và các chấn song cổng sắt ư?” Nhưng tất cả những lời nói đó đều không ăn thua, Người Đàn Ông vẫn cứ đi theo mục đích của mình. Bởi vì hình như ở đất nước này, trong những cuộc chuyện trò bên đống lửa người ta thường đồn rằng ở chính giữa trung tâm các mê cung, có một thứ đá quý rất đắt tiền và hiếm gặp, người nào tìm thấy nó sẽ trở nên giàu có, vậy nên anh ta kiên gan đi vào trong đó. Còn gì nữa? Quid multa – Làm gì mà nói nhiều thế? Thế là Kẻ Phiêu lưu bước qua cổng, và suốt một ngày trời bạn bè không được tin tức gì của anh ta, ngoài vài tiếng kêu xa xa trong đêm tối, làm họ trằn trọc trong giường và toát mồ hôi vì sợ, chẳng còn nghi ngờ


gì nữa, em họ, con trai họ đã được ghi thêm vào danh sách những kẻ không may đắm thuyền trong cuộc phiêu lưu. Sáng hôm sau họ đến cha xứ ở giáo khu để khóc lóc xin được kéo chuông tưởng niệm. Họ đau đớn đi qua cánh cổng của mê cung, họ đi vội đi vàng cho mau qua vì sợ. Họ trông thấy một thi thể nằm vật trên đồng hoang, họ tới đó (ta biết họ đã đoán trước được đìều gì) và thấy chính là người thân của họ mà họ tưởng đã mất hẳn, anh ta chưa chết nhưng bất tỉnh nhân sự như người đã chết. Những người đi đưa ma vui mừng trở về, tìm mọi cách hồi sức đứa con hoang tàng của họ, người mà tỉnh lại, nghe chuyện mọi người lo lắng chạy lung tung suốt sáng hôm sau đó, nói rằng: “Thôi các người đừng làm vậy nữa, tôi đã đem về Ngọc Quý đây (anh đua họ xem và quả là ngọc quý thật). Tôi mang nó về nhưng từ nay đêm quên ngủ, ngày quên vui" ngay lúc đó họ tưởng họ hiểu ý nghĩa điều anh nói, họ tưởng anh đau ở trong bụng, nhưng anh bảo “Nó là ở trong ngựcc tôi đây này, tôi không sao thoát khỏi được”. Chẳng cần thầy phù thủy tài giỏi nào giúp họ phán đoán, họ cũng biết đó là vì anh ta nhớ lại những gì anh đã trông thấy, nó khiến anh ta đảo lộn hết cả tâm trí. Suốt một thời gian dài họ không thấy ở anh điều gì khác ngoài sự lên cơn và hoảng hốt. Sau cùng họ tìm mọi phương kế để biết được những điều sau đây: thoạt đầu, lúc mặt trời lên cao chiêu sáng rạng rỡ, anh vui vẻ tiến tới trung tâm không khó khăn gì, và lấy ngay được ngọc quý, sung sướng trở về. Nhưng đêm xuống, lúc các con thú trong rừng hoạt động, anh cảm thấy có một sinh vật cứ cùng đi với anh theo tốc độ của anh, cứ nhìn vào anh chằm chằm, anh đứng lại thì Bạn đồng hành cũng đứng lại, làm anh hoảng loạn tâm thần. Đêm càng khuya anh càng cảm thấy có thêm nhiều sinh vật nữa, hầu như cả một đoàn tháp tùng anh. Anh phỏng đoán theo tiếng lột sột, loạt soạt, răng rắc giữa các bụi cây, hơn thế nữa có tiếng thì thầm lao xao cứ như chúng chuyện trò bàn bạc với nhau. Chúng là ai và hình dáng thế nào, không ai thuyết phục được anh nói ra là anh nghĩ gì. Khi được những Người Nghe hỏi: tiếng kêu anh nghe thấy trong đêm (như ở trên kia mô tả) anh cho là tiếng gì, thì anh bảo: Khoảng nửa đêm (anh ước đoán) anh có nghe người gọi tên anh từ rất xa, anh thề rằng đó là tiếng của người gọi anh. Anh đứng lại và reo to nhất có thể nhưng có lẽ đó chỉ là tiếng vang, tiếng vọng lại của chính giọng anh, nó biến dạng thành những tiếng thì thào chăng, vì sau đó im lặng không nghe thấy gì nữa. Sau đó có tiếng chân bước như đang chạy đàng sau anh, anh sợ quá cứ thế cắm đầu chạy và chạy cho đến sáng. Đôi khi, lúc mệt hết hơi anh ngã sấp mặt xuống, hy vọng Bọn Đuổi Theo sẽ chạy vượt quá anh trong đêm tối, nhưng đúng lúc ấy bọn chúng cũng dừng lại, anh nghe thấy tiếng chúng thở hổn

hển và hít hít như tiếng chó săn. Nó làm anh khiếp vía đến nỗi anh những muốn liều đổi hướng hoặc rẽ ngoặt bất thình lình để mong làm sao chúng không đánh hơi được anh. Sự sợ hãi do ráng sức chưa phải là tất cả, anh còn lo rơi vào một cái Bẫy ngầm nào đó mà anh nghe có nhiều người nói đến và chính mắt anh cũng trông thấy có rất nhiều trên cái lối đi, cả ở giữa đường lẫn hai bên đường. Anh nói chưa bao giờ có một đêm nào khủng khiếp, ghê gớm hơn cho một con người bằng cái đêm anh chịu đựng ở trong mê cung. Viên Ngọc quý nằm trong ví anh, đáng quý nhất, hơn hẳn những viên ngọc mang về từ Ấn độ nhưng cũng không xứng đáng là phần thưởng đủ bù lại những đau đớn mà anh phải trải qua”
“Tôi không muốn viết thêm ra đây lời kể của con người rối loạn thần kinh đó, tôi tin sự thông minh của bạn đọc sẽ hiểu được ý tương đương mà tôi muốn đem ra để so sánh. Bởi chẳng phải ngọc quý cũng chỉ là biểu tượng cho sự thoả mãn mà Người đàn ôntg có thể có được cho mình từ Kho Tàng Những Niềm Vui của Thế giới hay sao? Còn chính mê cung là hình ảnh của bản thân Thế giới trong đó Kho tàng của cải ấy (nếu như ta tin ở tiếng nói chung) được cất giữ?”
Đọc tới điểm này Humphreys thấy nên kiên trì thêm một chút cho thay đổi không khí, còn câu chuyện ngụ ngôn của tác giả có "tiến triển" gì nữa thì hãy cứ để đấy đã. Anh đặt quyển sách vào chỗ cũ tự hỏi không hiểu chú mình có làm thế hay không khi cụ đọc đến đoạn này, nếu vậy, có lẽ nó tác động lên trí tưởng tượng của cụ để mạnh khiến cụ đâm ra ghét một cái mê cung và quyết định khoá chặt mê cung trong vườn của mình.
Sau đó không lâu Humphreys vào giường.

Sáng hôm sau anh làm việc với ông Cooper khá vất vả, ông này tuy nói năng thì hoa mỹ thật, nhưng công việc điền trang nắm vững không hơn đầu ngón tay. Ông ta tỏ ra phấn chấn hồ hởi lắm, không hề quên việc phát quang mê cung, công việc sẽ được tiến hành ngay, con gái ông muốn đi thăm nó mà. Ông cũng hy vọng đêm qua Humphreys ngủ ngon, thời tiết cứ tiếp tục như thế này thì thích hợp quá. Đến bữa trưa, ông tán sang các bức tranh ở phòng ăn, chỉ vào chân dung người cho xây đền và mê cung. Humphreys lưu tâm nhìn kỹ. Nó là tác phẩm của một người Ý, được vẽ khi cụ cố Wilson sang thăm Ý thời còn trẻ (quả thật nó có nền là các cây cột lớn). Khuôn mặt mỏng tái xanh, đôi mắt to tướng, tay cụ cầm một cuộn giấy mở dở, trong đó phân biệt được hình ngôi nhà hình tròn, có lẽ là là cái đền, và một phần của mê cung. Humphreys leo hẳn lên một cái ghế đứng nhìn cho kỹ nhưng tranh vẽ không đủ tỏ tường sao chép lại do đó anh nghĩ mình sẽ phải lập bản đồ khu mê cung trong vườn để cho các khách đến thăm sử dụng, anh sẽ treo bản đồ đó trong sảnh.


Quyết định này được khẳng định ngay chiều hôm đó vì khi bà Cooper và cô Cooper sang chơi, rất hăm hở dẫn họ vào xem mê cung, anh thấy rằng mình không thể đưa họ vào đến trung tâm của mê cung. Những người làm vườn sau khi tiến vào đã bỏ đi tất cả các mốc họ đánh dấu, ngay cả Cluterham, lúc được gọi đến giúp, cũng chẳng giúp được gì. "Cụ Wilson, tôi muốn nói cụ Humprheys, đã cho sắp đặt những mê lộ hoàn toàn giống nhau để khiến cho người ta dễ lạc. Thôi được, tôi sẽ cố dẫn lối cho các vị, xin theo tôi. Tôi sẽ đặt cái mũ ở đây đánh dấu nơi khởi hành. Ông ta rậm rịch bởi vì và năm phút sau đưa cả đoàn an toàn về lại chỗ cái mũ. "Thế này mới lạ chứ" ông ta cười ngượng nghịu "rõ ràng lúc nãy tôi để cái mũ trên cây mâm xồi mà nay, các vị thấy không, làm gì có bụi cây mâm xôi nào? Ông Humphreys – phải tên ông không ạ? Tôi xin được gọi một tốp mấy người làm việc sáng nay ở đây, để họ đánh dấu lại"
William Crack tới, đáp lại việc bị gọi liên tiếp. Anh ta cũng khá khó khăn mới ra được đến chỗ cả đoàn. Lúc đầu người ta nhìn thấy anh trong một lối đi mé trong, rồi gần như ngay lúc đó, lại thấy anh xuất hiện trên một con đường mé ngoài. Tuy nhiên cuối cùng anh cũng tới chỗ đoàn, được hỏi ý kiến thì anh cũng lớ ngớ, sau đó anh được yêu cầu đứng cạnh cái mũ mà Cutterham cho rằng vẫn cứ nên đặt ở dưới đất. Chiến lược ấy cũng chẳng đi đến đâu, suốt bốn mười nhăm phút họ đi quanh đi quẩn trong mê cùng hoàn toàn vô ích, cuối cùng thấy bà Cooper quá mệt, Humphreys đành mời mọi người vào nhà dùng trà và xin lỗi cô Cooper".
"Giá nào thì cô cũng thắng cô Foster" anh nói "hôm nay cô đã ở trong mê cung rồi, tôi hứa việc đầu tiên tôi làm là sẽ vẽ bản đồ có hàng lối đánh dấu hẳn hoi để cô đi qua." "Vâng thưa ông, tôi thấy đó là điều cần thiết" Clutterham nói "phải có người vẽ bản đồ có hàng lối. Ai vào đây vô phúc gặp mưa rào thì chạy ra sao kịp, hàng nhiều tiếng đồng hồ mới ra nổi ấy chứ. Nói ngắn gọn, tôi đề nghị ông, cứ mỗi giờ một hàng dọc chặt đi hai cây cao để có thể nhìn thông suốt vào trong. Ấy làm thế thì kể chẳng còn gì là mê cung nữa, chẳng hiểu ông có đồng ý không?"
"Không, tôi vẽ bản đồ trước đã, đưa ông một bản sao. Để sau hãy hay, khi nào có cơ hội tôi sẽ nghĩ đến đề nghị của ông, bây giờ chưa chặt vội"
Humphreys vừa tự ái vừa xấu hổ về thất bại ban chiều cho nên ngay xẩm tối hôm đó anh tự làm cuộc thám hiểm một mình cho thoả mãn. Anh càng cáu thêm khi tìm ra trung tâm chẳng khó khăn gì. Anh định vẽ bản đồ ngay, nhưng ánh sáng đã tắt, đem bút giấy vào tới nơi thì không kịp nữa.


Vì vậy sáng hôm sau, mang theo bảng vẽ, bút chì, compas, giấy bìa cứng.. (một số mượn Cooper và một số tìm được trong tủ thư viện), anh tới thẳng trung tâm mê cung (không hề ngần ngại) bày vật liệu ra. Tuy nhiên anh chưa bắt đầu công việc ngay. Các cành mâm xồi, cỏ dại phủ quả cầu và cây cột nay đã được dọn sạch, lần đầu tiên anh nhìn rõ bên trong. Cái cột thì không có gì đặc biệt, giống những cây cột trên đó đặt đồng hồ mặt trời. Nhưng quả cầu thì khác. Tôi đã nói có chữ và những hình rất thanh tú khắc trên đó. Lúc đầu Humphreys tưởng là một quả thiên cầu, nhưng anh mau chóng nhìn ra nó không giống với quả thiên cầu mà trước đây anh đã được từng nhìn thấy. Chỉ có mỗi một hình quen thuộc là con rắn có cánh – Draco – bao quanh quả cầu, tức là ở vị trí đường xích đạo của một quả địa cầu, mặt khác, nửa bán cầu trên thì phần lớn bị che bởi hai cánh dang rộng của một hình thù khá lớn, đầu ẩn dưới cái vòng ở chỏm quả cầu. Quanh đầu có thể đọc được mấy chữ Princeps tenebrarum – Hay nhất là ở chỗ tối om. Nửa bán cầu dưới có một vùng đầy nét gạch chéo, ghi umbra mortis – bóng đen của xác chết. Gần đó là một rặng núi trong có một thung lũng, với những ngọn lửa đang dâng lên. Có cả chữ (chắc bạn sẽ ngạc nhiên khi biết) vallis filiorum Hinnom – Thung lũng của các cháu Hinnom. Trên và dưới Draco có rất nhiều hình vẽ khác nhau, không khác những tranh về các chòm sao nhưng cũng không hẳn giống. một người đàn ông trần truồng nâng một cây gậy, không như Hercules mà như Cain [4]. Một người nữa, nửa người ngập trong đất, vuơn lên hai cánh tay tuyệt vọng ra, là Chore không phải Ophiuchus. Người thứ ba, tóc buộc vào một cái cây toàn rắn, là Absolon [5]. Gần người cuối cùng là một người đàn ông áo dài mũ cao, đứng giữa một vòng tròn, đang nói với hai con quỷ râu tóc bờm xờm bay lượn phía ngoài, được mô tả như là Hostanes Magys[6] (một nhân vật không quen thuộc với Humphreys). Toàn cảnh là tập hợp của các bậc lão thành xấu xa, có lẽ không phải là không chịu ảnh hưởng của tiểu luận triết học của Dante. Humphreys nghĩ nó thể hiện thị hiếu bất thường của cụ cố anh, nhưng lại nghĩ có khả năng nó cũng chính là thứ cụ mang về từ nước Ý và chẳng buồn quan sát kỹ bao giờ. Có điều chắc chắn, nếu cụ đánh giá nó rất cao thì đã không để nó phơi ra nắng gió như thế này. Anh gõ gõ vào kim loại, có vẻ rỗng và không dày lắm. Sau đó anh quay đi làm công việc của mình. Sau nửa giờ miệt mài, anh nhận ra nếu không có đầu mối thì công việc không thể nào tiến triển được. Anh bèn dùng một cuộn dây của Clutterhamm, thả ra dọc theo các lối đi từ cửa vào cho đến trung tâm, cuối cùng buộc vào cái vòng ở đỉnh quả cầu. Nhờ vậy trước giờ ăn trưa, anh đã lập được một sơ đồ tàm tạm, ăn xong anh sẽ vẽ lại kỹ hơn. Tới giờ uống trà, Cooper sang gặp anh, ông phấn khởi trước tiến bộ của anh "Cái này" ông Cooper nói, đặt tay lên quả cầu rồi vội rụt tay lại ngay "úi chà! Sao nó giữ nhiệt kinh khủng thế này nhỉ, nhiệt độ cao một cách lạ thường ông Humphreys ạ. Tôi cho rằng loại kim khí này – đồng, phải không ạ? – là chất dẫn nhiệt, dẫn điện gì đó mà"
"Chiều nay mặt trời nóng ghê lắm" Humphreys nói, không đá động gì đến khía cạnh khoa học "nhưng tôi đâu thấy nó nóng lắm đâu nhỉ. Đối với tôi nó không nóng lắm thì phải"


"Kỳ quặc!" Cooper nói "Giờ tôi không đặt nổi tay lên nó nữa. Có lẽ khí chất ông và tôi khác nhau mất rồi, ông Humphreys ạ. Ông lạnh, tôi nóng, nó khác nhau như thế đấy. Suốt cả mùa hè vừa rồi, ông có tin được không, tôi ngủ trần đấy nhé, chỉ tắm nước lạnh. Ngày này qua ngày khác…ông để tôi giúp ông cái dây"
"Ông cứ để đấy, cám ơn ông. Giá như ông gom nhạt lại các bút chì, các thứ đang nằm kia thì hay hơn. Thôi ta đủ các vật dụng rồi, về thôi"
Họ rời mê cung, Humphreys vừa đi vừa cuộn dây.
Đêm hôm ấy trời mưa.
Không may nhất là, chẳng biết có phải lỗi của ông Cooper hay không, tấm sơ đồ bị bỏ quên tại chỗ, nước mưa làm hỏng hết. Chẳng còn cách nào, đành phải vẽ lại (nhưng điều này nhanh thôi). Cuộn dây lại được trải vào chỗ cũ, khởi sự từ đầu. Tuy nhiên chưa tiến hành được bao nhiêu thì Humphreys bị ngắt quãng bởi Calton đem tới một bức điện tín, ông sếp cũ cần thẩm vấn anh, rất khẩn cấp nhưng sẽ không kéo dài. Kể cũng chán, nhưng không lấy gì làm nản lòng, trong nửa giờ nữa có chuyến tàu, nếu mọi chuyện thông đồng bén giọt thì anh có thể trở về lúc năm giờ, muộn nhất là tám giờ. Anh đưa bản đồ cho Calton cất vào trong nhà. Dây thì anh không cần cuốn, cứ để nguyên.
Mọi việc diễn biến như anh mong đợi. Anh đã trôi qua một buổi tối khá thú vị trong thư viện, thắp đèn xem các cuốn sách quý hiếm. Khi đi ngủ anh lấy làm mừng là đầy tớ đã nhớ cho mở hé rèm và để ngỏ cửa sổ. Tắt đèn xong, anh ra đứng cạnh cửa sổ trông ra phía sau vườn và công viên. Đêm ấy trăng sáng vằng vặc. Chỉ vài tuần nữa là gió thu về, đâu còn không gian yên lặng trong đêm tĩnh mịch này nữa! Giờ đây những khu rừng xa xa chìm trong yên lặng dày đặc, những thảm cỏ thoai thoải lóng lóanh bụi sương, màu sắc hoa cỏ gần như phân biệt được . Ánh trăng soi tỏ chiếc mái nhà của ngôi đền và bờ cong của cái vòng bằng chì. Humphreys phải thừa nhận rằng, qua những gì đang nhìn, niềm tự hào của thời đại trước quả là một cái đẹp thực sự. Tóm lại ánh sáng, mùi hương của rừng cây, sự tĩnh mịch tuyệt đối đã gợi lên bao liên tiếng cổ kính trong tâm hồn anh, anh cứ nghiền ngẫm nó một lúc lâu. Từ cửa sổ nhìn vào, anh cảm thấy mình chưa bao giờ được nhìn một cảnh đẹp vẹn toàn như vừa rồi. Chỉ có một hình ảnh không hoà đồng vào quang cảnh chung là một cây thủy tùng Ailen nhỏ, đen, mỏng manh vươn thẳng lên các bực dâu gần cổng vào mê cung. Anh nghĩ, phải chặt bỏ cái cây này đi. Mà lạ thật, không ai thấy chướng mắt về vị trí của nó.



Tuy nhiên sáng hôm sau, mải trả lời thư từ, soát lại sách vở với ông Cooper, anh đã quên cây thủy tùng Ailen. Một lá thư mới tới. Thư của phu nhân Wardrop, nó làm anh nhớ lại bức thư bà đã viết cho cụ Wilson. Bà giải thích ngay bà đang sắp ra một quyển sách về mê cung, do đó rất muốn đưa vào sách sơ đồ mê cung Wilsthorpe, vậy nếu được ông Humphreys cho bà tham quan nó một ngày gần đây thì bà rất cám ơn, bà sắp ra ngoại quốc nghỉ đông. Nhà bà ở Bentley không xa gì lắm, Humphreys cho người đưa thư tay mời bà hôm sau hoặc hôm sau nữa tới thăm, sứ giả mang về lời biết ơn nồng nhiệt, mai bà sẽ tới.
Ngày hôm đó bản đồ mê cung cũng được hoàn tất rất thành công.
Đêm lại rực rỡ và êm ả, Humphreys cứ tha thẩn bên cửa sổ. Cây thủy tùng lại biểu hiện trong đầu óc anh khi anh sắp kéo rèm cửa. Nhưng không biết đêm trước anh nhầm hay cái cây không đến nỗi chướng mặt như anh tưởng. Dù sao, anh thấy không có lý do gì để can thiệp vào đó nữa. Tuy nhiên, có một thứ cần loại bỏ, đó là một bụi cây mọc um tùm ngay sát tường nhà, có nguy cơ che mất cửa sổ tầng dưới. Xem ra chẳng nên giữ làm gì, vừa ẩm vừa tối, mất vệ sinh, tuy anh chưa nhìn thấy toàn bộ nó.
Ngày hôm sau, thứ sáu (anh đến Wilsthorpe thứ hai) phu nhân Wardrop đi xe đến ngay sau giờ ăn trưa. Đó là một bà già mập mạp, chuyện nổ như ngô rang, đủ các loại, tỏ ra muốn làm vừa lòng Humphreys, người đã cho phép bà tới thăm vườn. Họ cùng nhau thăm thú kỹ càng khu vườn, bà đánh giá cao khả năng làm vườn của anh và rất nhiệt tình với kế hoạch cải tổ vườn tược, nhưng cho rằng không nên phá hoại những gì mọc quanh ngôi nhà. Bà đặc biệt thích ngôi đền "Ông Humphreys ạ, tôi nghĩ người quản lý đất đai của ông có lý khi cho rằng những viên đá có chữ này có ý nghĩa gì đó. Một trong các mê cung của tôi – rất tiếc đã bị những người ngớ ngẩn phá đi – là ở Hamsphire, người ta cũng đánh dấu bằng cách ấy. Ở chỗ tôi là những viên ngói, nhưng chữ trên đó giống như trên đá của ông đây, sắp đặt cho đúng trình tự thì trở thành một câu – tôi quên mất – về Theseus và Ariadne [7]. Tôi có chép lại. Sơ đồ của mê cung ấy tôi vẫn còn. Ai đời họ làm những việc phá phách như vậy bao giờ. Chắc tôi sẽ không tha thứ cho ông nếu ông phái cái mê cung này đi. Ông biết không, ngày nay nó trở thành quý hiếm đấy. Năm nào tôi cũng nghe nói người ta lại phá đi vài nơi. Thôi bây giờ ta tới mê cung đi. Nếu ông bận, tôi biết đường không sợ lạc đâu bởi tôi biết rõ các mê cung lắm . Mặc dù đã có một lần tôi bỏ bữa trưa – cách đây không lâu – khi đi vào mê cung ở Busbury. Còn nếu ông cố gắng cùng đi được với tôi, thì càng hay."
Sau lời mào đầu tin cẩn ấy, người ta cứ tưởng phu nhân Wardrop sẽ bị lạc trong mê cung Wilsthorpe này, nhưng không, chỉ có điều không biết bà có thật vui mừng đã thoả lòng mong ước hay không. Bà quan tâm tới nó


một cách thực sự - còn chỉ cho Humphreys những vết tích cho thấy nơi các hòn đá có chữ đã nằm, đất chỗ đó hơi bị nén xuống. Bà cũng bảo anh các mê cung khác giống nơi đây về cách sắp xếp, vàgt cho anh bằng cách nào người ta tính được tuổi các mê cung trong vòng hai mươi năm qua sơ đồ của chúng. Mê cung này theo bà được thiết lập từ năm 1780. Quả cầu hoàn toàn khiến bà bận trí, bà bị thu hút hết tâm tưởng vào đó. Lần đầu tiên bà biết tới nó, bà nhìn kỹ nó thật lâu. "Tôi muốn chà xát vào đó xem sao, nếu ông cho phép. Tôi quả không muốn tự động làm bất cứ cái gì ở đây và có cảm giác làm như vậy sẽ bị oán giận. Thưa ông, ông hãy thú thật với tôi xem" bà quay lại đối diện với Humphreys "Có phải từ lúc ông đến đây cứ như là có ai đó đang theo dõi chúng ta, xem ta có đi quá phạm vi không, nếu quá, lập tức bổ xuống đầu chúng ta ngay, ông không cảm thấy ư? “Ồ, tôi cảm thấy thế đấy, thôi ta hãy mau mau ra cổng đi”.
"Sau rốt thì" bà nói khi hai người trên đường vào nhà, "có lẽ do ở đó thiếu không khí và nóng nực nên trí não tôi bị ảnh hưởng, tuy nhiên có điều tôi cần nhắc lại, mùa xuân sang năm tôi trở về, nếu nơi đây mà bị đào xới lên tôi sẽ không tha thứ cho ông đâu đấy nhé"
"Đào xới hay không thì bà cũng có bản đồ của nó rồi còn gì, thưa phu nhân. Tôi đã hoàn thành, tối nay sẽ sao một bản cho bà".
"Tuyệt vời! Tôi chỉ cần một bản vẽ chì, có ghi dấu tỉ lệ, để so sánh với các bản đồ của tôi. Cám ơn ông lắm"
"Vâng, sáng mai bà sẽ có nó. Nhưng tôi muốn bà giúp tôi giải mã về các tảng đá"
"Ở trong nhà nghỉ mùa hè ấy ạ? Đó là một câu đố chữ cần sắp xếp có trình tự mà ở đây thì chưa. Thường người ta đặt những viên đá đã vào chỗ nào là có ý đồ cả - ông tìm xem trong các giấy tờ của chú ông có tờ nào nói về chúng không. Nếu không, tôi sẽ tìm cho ông một chuyên gia về các chữ trên đá đó"
"Xin bà một lời khuyên nữa. Cái bụi cây ngay dưới cửa sổ thư viện kia, bà có nhìn thấy không ạ?"
"Bụi cây nào nhỉ? Tôi chẳng thấy gì cả, dù tôi nhìn xa rất tốt"
"Có lẽ bà nói đúng, từ trên cửa sổ tôi nhìn xuống thì thấy, ngay bên dưới đó, tôi cho rằng nó chiếm mất nhiều chỗ quá, nhưng đúng là từ đây không nhìn thấy thật. Thôi tôi hãy tạm gác lại đã".
Dùng trà xong phu nhân Wardrop đi về, được nửa đường xuống cổng, bà dừng xe vẫy tay Humphreys lúc này vẫn còn đang đứng trên bậc tam cấp. Anh chạy lại "Ông xem thử mặt dưới các tảng đá xem, có thể có đánh số" bà nói.

Chữ ký

thay đổi nội dung bởi: APOLONG, 30-03-2009 lúc 01:45 PM. Lý do: Gộp 2 bài gần nhau
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #17  
Cũ 30-03-2009, 01:42 PM
APOLONG's Avatar
APOLONG APOLONG is offline
Điều Hành Viên
 
Tham gia: 14/11/2008
Họ và tên: Apolong
Bài viết: 677
Xã: Tình khác
Gửi tin nhắn qua Yahoo chát tới APOLONG
Default Trả lời : [Truyện Ma Kinh Dị] - Giếng Thở Than - [+16]

Tối hôm đó thế nào cũng phải hoàn thành bản sao sơ đồ mê cung cho phu nhân Wardrop, mất độ hai giờ là ít nhất, Humphreys đem bút giấy vào thư viện, bắt đầu làm việc. Đêm rất oi bức nhưng yên tĩnh, cửa sổ mở, mấy lần anh rờn rợn như có con dơi bay vào nên có ý canh chừng cửa sổ. Một hai lần gì đó anh cho là không phải dơi, một cái gì đó to hơn nhiều và có ý định vào tận chỗ anh. Thật khó chịu nếu có kẻ nào đó lẻn qua bậu cửa sổ vào nhà và lại đang núp dưới sàn!
Bản sao vẽ xong, chỉ còn so nó với bản chính và xem các con đường để mở hay đóng lại có đúng cách hay không. Hai ngón tay đặt trên hai tờ giấy, anh dò dẫm suốt từ cổng vào, có vài chỗ sai sót nhỏ trên dọc đường, tuy nhiên vào đến trung tâm thì thật rối loạn, có lẽ do có một con dơi thứ ba bay vào phòng. Trước khi chữa lại bản sao, anh theo dõi cẩn thận những chỗ ngoặt cuối cùng của con đường bên bản chính. Những chỗ ngoặt này đúng cả, đưa vào trung tâm không một vướng mắc nào. Ở đây có một điểm mà có lẽ không cần sao lại làm gì, một vết đen tròn to bằng đồng siling. Mực chăng? Không phải. Cứ như thể một cái lỗ. Làm sao có lỗ ở đây được? Đôi mắt mệt mỏi của anh nhìn chăm chăm vào đó. Việc vẽ bản đồ rất công phu, anh buồn ngủ, có cảm giác bị đè nén…Nhưng rõ ràng nó là một cái lỗ rất lạ, xuyên sâu qua giấy, qua cả cái bàn rồi qua cả sàn nhà bên dưới, sâu xuống mãi, mãi, mãi như vô tận. Anh thảng thốt, vươn cổ nhìn theo. Cứ tựa như hồi ta còn bé, ta cứ nhìn đăm đă vào một ô vuông con con trên khăn phủ giường cho tới khi nó biến thành cả một quang cảnh với những ngọn đồi có rừng che phủ, có khi còn thấy cả nhà thờ, ta mất hết cả ý niệm về kích thước, cái lỗ trên trong lúc ấy biến thành thứ duy nhất ở trên đời này đối với Humphreys. Chẳng hiểu vì lý do gì lúc đầu anh rất ghét nó, nhưng rồi cứ nhìn vào đó mãi, tuy nhiên anh cảm thấy lo lắng, cảm giác này ngày càng mạnh hơn, rồi anh bỗng hoảng hồn, sợ hãi dâng lên trong người anh, dần dần một nỗi tin chắc nó hành hạ anh đến khổ sở. Anh tin rằng một điều khủng khiếp đang trên đường đến với anh và một khi trông thấy cái điều khủng khiếp đó thì anh không thể nào thoát được. Phải, tận nơi sâu thẳm kia, một động thái đang chuyển dịch lên phía trên, lên tận trên mặt lỗ. Nó cứ lên dần, lên dần và gần lại anh, màu nó màu đen. Không phải một lỗ mà nhiều lỗ, rồi nó thành hình một cái mặt – mặt người – cháy thiêu, cùng với những đau đớn quằn quại đáng ghê tởm của một con ong bắp cày bò ra từ một quả táo thối, nó leo lên thành một hình thù vẫy vẫy hai cánh tay đen ngòm chuẩn bị siết chặt đầu người đang nhìn xuống.
Humphreys tuyệt vọng vì hết đường trốn chạy, anh lên cơn động kinh, giật nửa người ra sau và đập đầu vào cái đèn, ngã lăn ra đất.


Có chấn động não, hệ thần kinh bị sốc nặng, phải nằm tại giường khá lâu. Bác sĩ hoang mang chẳng hiểu gì cả. không phải vì triệu chứng – mà vì lời Humphreys nói lúc anh bắt đầu nói được "Tôi mong ông mở quả cầu (open the ball – cũng có nghĩa là mở cuộc khiêu vũ)" Bác sĩ gắng trả lời như sau "Tôi cho là trong đó chật chỗ quá, nhưng có lẽ đó là việc của ông thì đúng hơn việc của tôi, chân tôi bây giờ còn nhảy nhót gì nữa". Nghe thế, Humphreys lâm bẩm gì đó rồi quay vào ngủ tiếp, bác sĩ bèn bảo các y tá bệnh nhân chưa qua khỏi nguy hiểm. Khi anh đủ sức diễn đạt cho mọi người hiểu ý mình, Humphreys nói rõ ra, mọi người hứa thực hiện ngay. Anh lo lắng bồn chồn chờ kết quả. Sáng hôm sau, bác sĩ trông có vẻ nghĩ ngợi, thấy rằng nói cho bệnh nhân biết thì có lợi hơn là gây hại, bảo "Vâng, quả cầu đã được bổ ra rồi, lớp kim loại mỏng thôi, vừa nện nhát búa đầu tiên nó tan thành từng mảnh ngay" "Ông nói tiếp đi" Humphreys sốt ruột nói "À, ra anh muốn biết ở trong có gì. Một nửa nó chất đầy một thứ giống như tro" "Tro? Ông làm gì với chỗ tro đó?" "Tôi chưa kịp xem kỹ vì chưa có thời gian, nhưng ông Cooper đã xác định, tôi dám nói đó là tro hoả táng người chết…Thôi ông đừng kích động thế, phải, tôi phải nói rằng ông Cooper đã nói đúng đấy".
Mê cung không còn nữa, phu nhân Wardrop đã tha thứ cho Humphreys, thực tế anh đã thành hôn với con gái bà. Bà nói đúng. Dưới các tảng đá có đánh số, một số đã mờ, nhưng còn đủ trông rõ để Humphreys sắp xếp theo trình tự thành một câu như sau:
PENETRANS AD INTERIORA MORTIS – LEN LỎI VÀO TỚI TẬN XÁC CHẾT.
Mặc dù Humpheys rất biết ơn ông chú, nhưng anh không thể tha thứ cho cụ về việc đã đốt hết nhật ký, thư từ của cụ cố James Wilson, người để lại ngôi đền và mê cung cho chú anh. Cụ cố chết ra sao và được chôn cất như thế nào, chẳng còn truyền tụng nào hết, nhưng trong di chúc của cụ (chỉ còn mỗi thứ đó trong tay) còn lại một phần khá hào phóng cho người đầy tớ mang cái tên Ý.
Quan điểm của ông Cooper là, về mặt nhân văn mà nói, tất cả những sự kiện trang trọng trên đều có một ý nghĩa nào đó với chúng ta mà ta cứ làm chúng tan hoang do đầu óc có hạn. Cụ Wilson vừa rồi còn nhớ lại một bà dì – đã mất – vào năm 1866 có lạc một tiếng đồng hồ trong mê cung ở Covent Gardens, nay có lẽ là Hampton Court.
Chuyện kỳ quặc nhất trong toàn bộ cả loạt sự việc vừa qua là quyển sách trong có truyện ngụ ngôn nói trên tự nhiên biến mất. Sau khi Humphreys chép đoạn văn cho phu nhân xong thì anh tìm đâu cũng không thấy nó nữa.
Chú thích:
[1] Quả cầu trên đó người ta vẽ bản đồ của trời, khác với quả địa cầu
[2] Kỳ nghỉ cuối tuần của người Do Thái
[3] Theseus (thần thoại Hy lạp) – Vua Athènes, đã giải phóng thành phố khỏi ách của Minos (vua xứ Crète) vì giết được Minotaure, một co nquỷ nửa người nửa bò sinh ra từ vợ của Minos (Pasiphae) với một con bò mộng. Minotaure bị Minos giam trong một mê cung
[4] Cain: con cả của Adam và Eva, vì ghen với anh là Abel nên đã giết anh
[5] Absolon: con trai của David (thế kỷ X trước công nguyên) chống lại cha bị thua chạy, tóc vướng vào một cái cây và bị treo vào đó nên bị Joab chạy thoe giết chết.
[6] Hostanes magys: thầy phù thủy Hostanes
[7] Ariadne (thần thoại Hy lạp) là con gái của Minos và pasiphae, khi Theseus đến Crete để giết Mindaure, nàng đã cho Theseus một cuộn chỉ để vào mê cung.



+++++++++++++++++++++++


Chương XVI

Tiến sĩ thần học Ashton ngồi trong phòng làm việc, khóac chiếc áo mặt trong nhà, đầu đội chiếc mũ lục che cái đầu cạo nhẵn – bộ tóc giả của ông lúc này đặt trên cái khuôn đựng mũ ở chiếc bàn bên cạnh. Ông là một người độ năm mươi lắm tuổi, cường tráng, mặt đỏ, ánh mắt cáu kỉnh, môi trên dài. Mặt và mắt ông lúc này được chiếu sáng bởi tia nắng mặt trời buổi chiều chíếu qua cánh cửa sổ cao có khung kính trượt trông ra phía Tây. Gian phòng cũng cao với nhiều giá sách, vách ngăn bằng gỗ. Trền bàn, gần khuỷu tay tiến sĩ là một tấm vải xanh trên để trên khay đựng lọ mực, ít bút giấy, một hai quyển sách bọc da dê, cái tẩu, hộp thuốc lá bằng đồng, bi đông bọc rơm, cốc uống rượu. Đó là vào năm 1730, tháng mười hai, hơn ba giờ chiều.
Những điều tôi mô tả không khác gì được ai đó hé cửa nhìn vào. Từ trong chiếc ghế bành da, nếu tiến sĩ Ashton nhìn ra sẽ thấy gì? Ngọn một số bụi cây và cây ăn quả trong vườn, toàn bộ bức tường gạch đỏ nằm suốt chiều dài phía Tây khu vườn. Có một cánh cổng sắt chạm trổ công phu cho phép tầm nhìn mở ra xa hơn. Mặt đất đổ thoai thoải xuống tận đáy một con suối chảy qua, sau đó lại dốc ngược lên ở phía bờ bên kia lên một cánh đồng trông giống công viên, dày đặc các cây sồi lúc này trơ lá, qua khe các thân cây thấy được bầu trời màu vàng và chân trời màu tím với những cánh rừng ở xa xa.
Nhưng tất cả những gì tiến sĩ Ashton nói ra lúc này trong khi đang ngắm quang cảnh trong nhiều phút, chỉ là "Tồi tệ quá!".
Sau câu nói đó ta nghe có tiếng bước chân bước đi về phía phòng làm việc. Tiếng vang của nó chứng tỏ người đến đang băng qua một gian phòng rộng hơn. Tiến sĩ Ashton quay ghế nhìn ra, vẻ chờ đợi. Người bước vào là một phu nhân mập mạp mặc quần áo thời bấy giờ. Lúc nãy tôi mô tả quần áo ông tiến sĩ này thì không lo đến quần áo vợ ông làm gì, bởi đó chính là bà Ashton. Khuôn mặt lo lắng, cái nhìn lơ đãng buồn thương, bà Ashton cúi sát xuống chồng, thì thào "Anh yêu, nó nặng lắm rồi, em nghĩ thế!" "Nặng lắm rồi sao?" Ông dựa người ra sau nhìn thẳng vào mặt bà. Bà gật đầu. Hai tiếng chuông nghiêm nghị ngân lên cao vút ở không xa lắm, báo hiệu nửa giờ đồng hồ. Bà Ashton giật mình "Ồ, anh có thể ra lệnh cho đồng hồ nhà thờ tu viện ngừng gõ chuông đêm nay được không? Đồng hồ ở ngay trên phòng nó làm nó mất cả ngủ mà chỉ có giấc ngủ là hy vọng duy nhất lúc này." "Vậy ư? Nếu thật như vậy thì có thể được nhưng chỉ là trường hợp hạn hữu. Em cho là Frank có cơ may sống được nhờ yên tĩnh sao?"


Giọng tiến sĩ Ashton to và cứng ngắc. "Em tin như vậy," vợ ông đáp. "Vậy thì được, bảo Molly chạy sang Simpkins nói tôi ra lệnh cho chuông đồng hồ ngừng gõ kể từ lúc mặt trời lặn. Sau đó, phải, sau đó gọi Lord Saul đến ngay phòng này gặp tôi." Bà Ashton vội chạy đi.
Trước khi có người khách nào khác đến đây, xin được giải thích hoàn cảnh.
Tiến sĩ Ashton là người được hưởng lộc thánh của nhà thờ thuộc học viện tu viện Whitminster, một trong những cơ ngơi sống sót qua cả thời Giải thể lẫn thời Cải cách, kể các thể chế lẫn các khoản trợ cấp cũng vẫn còn tồn tại. Mặc dù đây không phải là một nhà thờ lớn, nhưng nơi ở của tu viện trưởng và hai giáo sĩ được hưởng lộc thánh, khu đồng ca và các vật dụng phụ vẫn nguyên vẹn không hề suy suyển. một tu viện trưởng năm 1500 là một nhà xây dựng tích cực, đã cho xây một khu vuông vắn bằng gạch đỏ nối liền với nhà thờ dùng làm nhà ở cho các nhân viên. Một số người sau này không còn cần thiết cho nhà thờ và tu viện nữa do đó nơi ở của họ đã tan hoang chỉ còn lại gạch ngói, nay thuộc quyền các giáo sĩ, luật sư trên tỉnh. Vậy là những căn nhà đủ cho tám đến mười người ở nay thuộc về ba người – tu viện trưởng và hai giáo sĩ được hưởng lộc thánh. Nhà của tiến sĩ Ashton gồm hành lang chung trước kia, cùng phòng ăn lớn của toàn bộ khu ngụ cư, bao gồm cả một nửa sân, cuối sân có cửa vào nhà thờ tuổi viện, cửa kia, như ta đã biết, trông ra cánh đồng.
Ngôi nhà cũng vậy. Về những người ở cùng, vì tiến sĩ Ashton khá giả lại không có con cái, do đó ông đã nhận làm con nuôi, hay chịu trách nhiệm nuôi dưỡng, một đứa trẻ mồ côi con cô em vợ, tên là Frank Sydall. Thằng bé đến ở trong căn nhà này từ nhiều tháng nay. Rồi một ngày kia có một lá thư từ một vị quý tộc Ireland, tức là bá tước Kildonan (học cùng với tiến sĩ Ashton ở trường đại học) hỏi xem tiến sĩ có thể cho đứa con trai thừa tự duy nhất là Tử tước Saul đến ở trong gia đình để tiến sĩ làm giám hộ cho nó được không. Ngài Kildonan sắp đi Lisbon nhậm chức trong sứ quán, thằng bé không phù hợp với chuyến đi này. "Không phải vì cháu không đủ sức khoẻ, mặc dù ông sẽ thấy tính khí cháu rất bất thường" (gần đây tôi nghi ngờ và bây giờ thì khẳng định điều đó). Bà vú già của nó bảo tôi là nó bị ma ám nhưng thôi, để tiến sĩ xác định đó là cái gì. Cánh tay tiến sĩ xưa đã mạnh, nay tôi dành thẩm quyền cho ông cần làm gì cứ làm. Thực tế nó chẳng có bạn cùng tuổi để chơi, thành ra cứ ủ rũ lang thang trong các tầng hầm, các nghĩa địa. Từ đấy tha về các chuyện kinh khủng làm bọn đầy tớ của chúng tôi hết hồn. vậy là xin nói trước với vợ chồng ông như vậy" có lẽ họ thấy khả năng một vị trí giám mục ở Ireland (ám chỉ bởi một câu trong thư của Bá tước) mà tiến sĩ Ashton nhận trách nhiệm giám hộ Tử tước Saul với hai trăm ghi nê một năm trong năm tới.
Thế là vào một đêm tháng Chín, cậu tử tước đến. Ra khỏi xe ngựa, trước tiên cậu đến nói chuyện và cho tiền đứa nhỏ đưa thư, sau đó vỗ vào cổ con ngựa. chẳng biết có phải con ngựa sợ hay không, nhưng suýt xảy ra tai nạn hiểm nghèo vì con vật chồm lên, người dẫn ngựa trạm bị quật xuống đất, rơi mất tiền thù lao, mãi sau này anh ta mới phát hiện ra, cột cổng bị tróc sơn, bánh xe chẹt và chân người trong nhà ra xách hành lý. Khi Lord Saul bước lên bậc tam cấp có ánh sáng đèn cổng soi vào, cậu được tiến sĩ Ashton ra đón. Cậu ta mười sáu tuổi, gày xanh, tóc đen bóng. Trước tai nạn vừa qua, cậu khá bình tĩnh và tỏ ra lo lắng cho người bị đau. Giọng cậu nhẹ nhàng, vì, không có âm sắc Ireland mới lạ chứ!


Frank Sydall là đứa trẻ nhỏ tuổi hơn, mới mười một, mười hai nhưng Lord Saul sẵn sàng chơi với em. Em dạy cho Saul những trò ở Ireland không có, cậu học những trò này dễ dàng, cậu học chữ cũng dễ dàng tuy ở nhà chẳng thấy cậu cầm sách vở mấy khi. Chẳng mấy chốc cậu đã tìm phương cách giải hết các chữ trên các tấm bia mộ trong sân nhà thờ, đôi khi đặt những câu hỏi khá hóc búa cho ông tiến sĩ Ashton về sách vở trong thư viện. Đầy tớ thích cậu, chỉ mười ngày sau khi cậu tới, chúng răm rắp làm vừa lòng cậu. Bà Ashton thời gian này phải thay nhiều đầy tớ gái, gần tỉnh không có, phải đi khá xa mới mướn được.
Những việc tổng thể này tôi biết được qua nhật ký và thư từ của tiến sĩ. Ngoài ra còn những việc gay cấn và chi tiết hơn biết được qua những đoạn ghi chép hồi cuối năm, sau tai nạn cuối cùng, thực ra nó xảy ra trong một số ít ngày thôi nhưng người viết không nhớ cụ thể ngày tháng.
Vào một sáng thứ sáu, không rõ chồn hay mèo đã cắp mất con gà trống non màu đen rất yêu quý của bà Ashton, nó đen tuyền, không có một chiếc lông trắng nào. Chồng bà nói nó là vật hy sinh rất thích hợp cho Aesculapius – vị thần La Mã trông coi về y học. Bà rất khó chịu, nay thì không gì an ủi được bà. Hai đứa nhỏ đi tìm khắp nơi. Lord Saul đem về một nắm lông có vẻ như bị đốt một phần trong đống rác sau vườn. Ngay hôm ấy nhìn qua cửa sổ, tiến sĩ Ashton bắt gặp hai đứa trẻ đang chơi ở góc vườn một trò mà ông không hiểu. Frank hăm hở nhìn vào một vật gì đó cầm trong lòng bàn tay. Saul đứng đàng sau nó, nghe ngóng.
Sau vài phút cậu nhẹ nhàng đặt bàn tay lên đầu Frank và ngay lập tức, Frank bỏ rơi luôn thứ đang cầm trong tay, hai bàn tay vỗ lên hai mắt rồi lăn đùng xuống cỏ. Saul, mặt mày lộ vẻ giận dữ, vội vã nhặt ngay cái vật đó lên (ông chỉ nhìn thấy nó lấp lánh) đút vào túi, bỏ đi, để mặc Frank phủ phục dưới đất. Tiến sĩ Ashton gõ vào cửa kính để chúng biết sự có mặt của ông, Saul nhìn lên hoảng hốt chạy lại chỗ Frank nhấc cánh tay nó lôi đi. Tới bữa ăn tôi, Saul giải thích chúng đóng vai với nhau một đoạn trong vở bi kịch của Radamistus, trong đó vai nữ chính đọc được tương lai của vương quốc cha cô nhờ một quả cầu thủy tinh cầm trong tay nên quá hoảng hốt vì tin này. Trong khi đó Frank chỉ hoang mang nhìn lên Saul, không nói gì. Ông Ashton nghĩ, có lẽ nó bị lạnh do ngã xuống cỏ ướt, bởi vì sẩm tối nó bắt đầu sốt, vừa khó ở, vừa rối loạn tinh thần, hình như có việc cần nói với bà Ashton, mà hôm ấy bà lại có những việc nhà khẩn cấp không lưu tâm đến nó được. Thế rồi đến lúc tối, khi bà vào phòng nó xem đèn đã được mang đi chưa và chúc nó ngủ ngon thì thấy nó ngủ nhưng mặt đỏ bừng khác thường, trong khi Saul thì tái xanh nằm thiu thiu, mỉm cười lặng lẽ.
Sáng hôm sau tiến sĩ Ashton bận công việc bên nhà thờ không dạy học cho hai cậu con trai được, giao cho chúng viết bài đưa nộp. hơn ba lần Frank gõ cửa phòng làm việc của ông, nhưng ông đều bận khách, gạt nó ra khá cộc cằn, sau này ông ân hận mãi. Tối thì có hai giáo sĩ tới ăn cơm, cả hai vị - đều đã làm cha – thấy thằng bé đang sốt cần cho vào giường ngay. Lúc cuối giờ buổi chiều nó ra ngoài hốt hoảng chạy vào trong nhà, kêu liên tục vẻ khủng khiếp và cứ ôm chặt lấy bà Ashton nhờ bà bảo vệ nó. "Đừng cho chúng lại gần! Đuổi chúng ra xa đi!" Bây giờ thì rõ ràng là nó ốm nặng rồi. Nó được đưa vào một căn buồng không phải buồng nó mọi khi vẫn nằm, bác sĩ được mới tới. Tuyên bố nó bị rối loạn não do trận ốm, tiên lượng rất xấu cần giữ yên tĩnh tuyệt đối và cho uống thuốc an thần.


Bây giờ ta trở lại lúc đầu. chuông đồng hồ thôi không đánh giờ nữa. Lord Saul đứng trước ngưỡng cửa phòng làm việc của tiến sĩ Ashton.
Tiến sĩ Ashton hỏi:
"Tình trạng thằng bé như vậy, cậu giải thích ra sao đây?"
"Thưa ông mà tôi có biết hơn ông một chút, ngoài những gì ông đã thấy hôm qua. Tuy nhiên tôi tự trách mình đã làm nó sợ. Khi chúng tôi đóng vở kịch ấy. Hơn nữa tôi đã làm nó nhập tâm quá mức một số điều."
"Thế là thế nào?"
"Tôi có kể cho nó nghe những chuyện ở Ireland mà chúng tôi gọi là khả năng nhìn thứ hai"
"Khả năng nhìn thứ hai? Là cái gì vậy?"
"Thưa ông, dân chúng ngu muội của chúng tôi cho rằng có một số người có thể nhìn thấy trước những chuyện sẽ xảy ra – qua một cái cốt thủy tinh, hay qua không khí chẳng hạn. Ở Kildoan có một bà già tự cho mình có quyền lực ấy. Có lẽ tôi cường điệu vấn đề lên quá. Tôi có ngờ đâu nó bị tác động mạnh đến vậy"
"Cậu sai lầm. cậu sai lầm quá đấy khi đắm vào những chuyện mê tín dị đoan ấy, cậu nên nhớ cậu ở đây là trong nhà ai, tính cách và con người tôi không ưa những chuyện như vậy. Nhưng thôi, cậu hãy cho tôi biết việc cậu làm, như cậu nói, là cái vở kịch ấy, vì sao lại khiến cho Frank sợ hãi đến thế?"
"Thưa ông, quả tôi không thể biết được. Chỉ trong một lúc nó huênh hoang đủ mọi chuyện từ chiến trận đến những người tình, đến Cleodora và Antigenes, rồi đến những gì gì nữa tôi không theo dõi kịp, cuối cùng nó giống như ông trông thấy đấy"
"Phải, cái lúc cậu đặt tay lên đầu nó chứ gì?"
Lúc này Lord Saul nhìn vội lên người lục vấn mình một cái – nhìn hằn học và rất nhanh không ai nhận biết – lần đầu tiên cậu ta chưa sẵn sàng có câu trả lời.
"Có thể là đúng lúc ấy đấy ạ, tôi cố nhớ lại nhưng đã quên cả, thực ra những hành động tôi làm lúc dó chẳng có ý nghĩa gì"
"Ái chà, phải, thưa cậu, cậu biết cho là vì sự sợ hãi đó mà Frank phải chịu những hậu quả tai hại. Bác sĩ nói tình trạng nó rất đáng nản lòng"
Lord Saul xoắn vặn hai tay vào nhau nhìn Tiến sĩ Ashton khẩn thiết.
"Tôi tin là cậu không có ý định xấu, chắc chắn cậu chẳng có lý do gì mà chơi ác nó, nhưng tôi không thể hoàn toàn không trách cứ cậu trong câu chuyện này"
Trong khi ông nói, lại có tiếng bước chân dồn dập đi tới, bà Ashton bước vào tay cầm cây nến, lúc này đã nửa đêm, bà hoảng sợ và bối rối ghê lắm, bà kêu lên "Lại đây ông ơi, nó đang đi rồi!"
"Đi! Frank ấy ư? Có thể như thế được chăng?"
Thốt ra vài lời không đầu đuôi, ông tiến sĩ cầm quyển Kinh thánh chạy theo vợ. Lord Saul đứng lại tại chỗ một lúc. Cô đầy tớ Molly nhìn thấy cậu ta cúi gập người lấy hai tay bưng mặt. Về sau cô kể lại, chính là cậu ta đã hết sức kìm nén một trận cười phá lên. Sau đó Saul mới nhẹ nhàng đi ra, theo sau mọi người.
Quả thật đáng buồn, bà Ashton tiên lượng đúng. Tôi không muốn kể những chi tiết của cảnh trí cuối cùng này ở đây. Những gì tiến sĩ Ashton ghi lại vô cùng quan trọng cho câu chuyện này. Họ hỏi Frank có muốn gặp bạn một lần nữa không. Có vẻ như thằng bé hết sức tập trung tư tưởng, trả lời "Không, cháu không muốn gặp nó, nhưng hai bác bảo hộ cháu rằng cháu sợ nó sẽ bị lạnh đấy." "Cháu nói thế là nghĩa thế nào hả cháu?" bà Ashton hỏi. "Chỉ có thế thôi" Frank nói "nhưng hai bác cũng bảo nó là từ nay cháu thóat khỏi chúng rồi, nhưng nó thì phải cẩn thận. Cháu rất tiếc về con gà trống đen của bác, bác Ashton ạ, nhưng nó bảo là phải dùng con gà ấy nếu như chúng cháu muốn nhìn được những gì muốn nhìn"


Nhiều phút sau Frank qua đời. Ông bà Ashton đau buồn vô kể, nhất là bà Ashton, nhưng tiến sĩ, vốn không phải người dễ động lòng, cảm thấy được bệnh học của cái chết đột ngột này. Ông cũng nghi ngờ Saul đã không nói hết với ông. Có một cái gì đó không thuộc sở trường của ông. Rời căn phòng người chết, ông qua khu nhà vuông vắn sang chỗ người trông nom nhà thờ và nghĩa địa. Một hồi chuông gióng giả báo tin có người chết, cái chuông lớn của nhà thờ rung lên, một cái huyệt được đào trong sân nhà thờ tu viện. Từ bây giờ, đông hồ có thể đánh chuông báo giờ được rồi.
Chầm chậm trở về nhà trong bóng tối, ông nghĩ thế nào cũng phải gặp Lord Saul một lần nữa. Vấn đề con gà trống màu đen cần được làm sáng tỏ. Cũng có thể chỉ do trí tưởng tượng của thằng bé đau ốm, nhưng nếu không, rất có thể đó là cuộc thử nghiệm phép phù thủy như ông đã từng đọc qua trong sách, muốn vậy phải có một con vật làm vật hy sinh trong nghi lễ cúng thần. Phải, ông phải.
Tôi đoán ra những ý nghĩ này của ông thì đúng hơn là biết qua những lời ông ghi chép lại. Cuộc chạm trán lần thứ hai ắt là phải có, và cũng ắt là Saul không làm sáng tỏ gì hơn những lời của Frank. Tuy nhiên, lời dặn lại của Frank làm cho Saul sởn người, cậu bị tác động ghê gớm. Dù vậy không có đoạn nào ghi chép chi tiết cuộc nói chuyện giữa hai người. Chỉ thấy nói cả buổi tối Saul ngồi trong thư viện và khi chào tiến sĩ Ashton để đi ngủ thì cậu ta tỏ ra hết sức miễn cưỡng, lại còn hỏi mượn quyển kinh của ông.
Tháng Giêng sắp hết thì Lord Kildonam ở đại sứ quán tại Lisbon nhận được một bức thư lần đầu tiên gửi cho người đàn ông vô tích sự và người cha sao lãng bổn phận này bồn chôn rối loạn. Saul đã chết. Còn về đám tang của Frank, cảnh tượng rất não lòng. Trời tối sầm và nổi gió. Những người đưa tang loạng choạng đi trong bóng tối mờ mịt dưới lớp vải phủ quan tài bay phần phật, họ vô cùng vất vả mới tới được cánh cổng nhà thờ dẫn ra nghĩa địa. Bà Ashton ở lại trong phòng phụ, không đi đưa tang người thân của mình, nhưng Saul có mặt, trùm áo khoác tang thời ấy, mặt nó trắng nhợt và bất động như mặt người chết, ba bốn lần chợt quay mình đột ngột sang trái nhìn qua vai. Mặt nó biểu lộ vẻ kinh khiếp như vừa nghe thấy một điều gì đáng sợ. không ai nhìn thấy nó bỏ đi, tối đó tìm nó ở đâu cũng không thấy. Cả đêm gió mạnh, đập ầm ầm vào cửa sổ nhà thờ, gào thét qua các cánh rừng. Tìm ngoài trời không tìm nổi. Giả sử kêu lên cấp cứu cũng chả ai nghe thấy. Tiến sĩ Ashton thông báo cho mọi người trong học viện của tu viện biết, cả các cảnh sát của thị trấn nữa, ông thức suốt đêm chờ tin tức. Sáng sớm hôm sau thì có tin do người coi nhà thờ và nghĩa trang nhà thờ thông báo nhiệm vụ của ông này là mở cửa nhà thờ lúc bảy giờ cho những người đến cầu kinh sớm, ông ta sai cô tớ gái mặt dại đi vì sợ, tóc tai dựng ngược, chạy lên gác mời ông chủ. Hai người băng qua sân vọt sang cánh cửa phía nam tu viện thấy Lord Saul trong tư thế tuyệt vọng nắm chặt lấy cái vòng lớn của cánh cửa, đầu rụt vào hai vai, tất rách tả tơi, giày không còn, chân rướm máu và bị xé nát nhiều chỗ.


Tất cả được kể lại cho Lord Kildonan nghe và đến đây chấm dứt phần đầu câu chuyện. Mộ của Frank Sydall và tử tước Saul, con trai duy nhất, người thừa kế của bá tước William Kildonan, được chung vào làm một, có chung một tấm bia mộ bằng đá, nằm trong sân nhà thờ Whitminster.
Tiến sĩ Ashton sống thêm ba mươi năm nữa, không rõ cuộc đời êm ả như thế nào nhưng không thấy có gì là bị khuấy động. Người kế nhiệm ông đã có nhà riêng trên thị trấn cho nên căn nhà của ông bỏ trống. Cả hai người đã cùng được nhìn thế kỷ mười tám qua đi cũng như thế kỷ mười chín bước tới, bởi ông Hindes, người kế nhiệm ông Ashton, trở thành giáo sĩ được hưởng ân huệ Chúa năm hai mươi chín tuổi và chế năm tám mươi chín tuổi. Vì vậy cho nên đến năm 1823 hoặc 1824 người kế nhiệm lúc đó mới có ý định đến ở căn nhà. Đó là tiến sĩ Henry Oldys, tên ông ta có lẽ nhiều bạn đọc đã biết vì ông là tác giả một bộ sách nhiều tập có tên là Oldys s Works rất được trân trọng, do rất ít người động đến nó cho nên nó nằm yên trên giá sách của nhiều thư viện trọng yếu.
Tiến sĩ Oldys, cô cháu gái và các đầy tớ bỏ ra nhiều tháng để chuyển đồ đạc và sách vở từ nhà cha xứ Dorsetshire tới sân trong nơi cư ngụ ở Whitminster và xếp đặt mọi thứ đâu ra đấy. cuối cùng mọi việc xong xuôi, căn nhà (tuy không có ai ở vẫn được giữ sạch sẽ và không bị thời tiết làm hư hại) sống lại, và giống như toà nhà của Monte-Cristo ở Auteuil, nó sống, hát ca, nở hoa một lần nữa. Vào một buổi sáng tháng Sáu, trông nó đặc biệt tuyệt đẹp, lúc ấy tiến sĩ Oldys đang đi dạo trong vườn trước bữa điểm tâm, nhìn lên mái ngói màu đỏ phía trên gác chuông nhà thờ tu viện với bốn chong chóng gió in trên nền trời xanh thẳm bồng bềnh những đám mây trắng.
"Mary" ông nói khi ngồi xuống bàn ăn sáng, đặt một vật cứng và sáng lóng lánh trên khăn trải bàn "Thằng ở mới tìm thấy vật này. Cháu thông minh sắc sảo hơn vậy hẳn cháu biết nó là cái gì."
“Đó là một miếng thủy tinh tròn, nhẵn, dày độ khoảng một centimet rưỡi trong suốt. Mary nói:
"Vật này trông hấp dẫn đấy chứ!"
Mary là một phụ nữ xinh đẹp, tóc nhạt màu, mắt to, xem ra là một người đọc sách nhiều.
"Phải" chú cô bảo "Chú cũng nghĩ là cháu sẽ thích nó. Nó là từ trong nhà này ra, nằm trong đống rác ở góc sân kia"
"Cháu không dám chắc có thích nó không," vài phút sau Mary nói.
"Tại sao hả cháu?"
"Cháu cũng không biết nữa. Có lẽ tưởng tượng ra thôi."
"Phải, dĩ nhiên, tưởng tượng và lãng mạn. Tên quyển sách ấy là gì nhỉ? Mà cháu đọc hôm qua ấy?"
"Bùa ngải ạ. Ồ, nếu nó là một thứ bùa ngải thì hay thật đấy."
"Phải, bùa. À thế ra cháu thích nó rồi, dù nó là cái gì chăng nữa. Thôi, chú có công việc phải đi đây. Nhà cửa thế nào? Cháu có hài lòng không? Đầy tớ có kêu ca gì không?"


"Không ạ. Thật không căn nhà nào duyên dáng hơn. Chỉ có mỗi một điều đáng nghi thôi. Họ phàn nàn là tủ khăn giường và đồ vải không mở được khoá – cháu đã nói với chú rồi. Ngoài ra bà Marple bảo là không sao xua được những con ong cắn lá [1] ra khỏi căn phòng chú vẫn đi qua ở cuối gian sảnh ấy. À, chú có thích phòng ngủ của chú không ạ? Cách xa tất cả mọi căn phòng khác."
"Có thích hay không ấy ư? Nhất định là có. Chú xin lỗi nhé, càng xa phòng cháu càng tốt. Còn lũ ong? Chúng có nhấm áo khoác của chú không? nếu không, cứ để chúng trong phòng ấy. Ta có dùng đến đâu?"
"Ồ, không ạ. Những con ong bà Marple bảo là những con màu đỏ giống loài chân dài, nhưng nhỏ hơn, nhiều vô kể, chúng cứ đậu, nhòm vào gian phòng, cháu chẳng ưa gì chúng nhưng có lẽ chúng chẳng làm hại ai."
"Buổi sáng đẹp trời hôm nay cháu không thích nhiều thứ đấy nhỉ?" Ông chú nói, khép cửa đi ra. Cô Oldys ngồi yên trên ghế nhìn vào miếng thủy tinh cầm trong tay. Nụ cười trên môi cô tắt dần nét mắt chuyển sang tò mò và căng thẳng. Đang mơ màng thì bà Marple bước vào, vẫn mở đầu bằng câu mọi khi "xin phép nói với cô một phút được không ạ?".
Lá thư sau đây mà cô Oldys viết cho cô bạn Lichfield một hai ngày trước đó, là một nguồn khác của câu chuyện. Nó tỏ ra người viết có chịu ảnh hưởng của cô này, một người lãnh đạo tư tưởng phụ nừ thời ấy, từ khi cô Anna Seward còn được mệnh danh là "con thiên nga của Lichfield."
"Hẳn Emily dễ thương của tôi sẽ vui lắm khi được biết cuối cùng chú tôi và tôi đã dọn tới căn nhà mà ở đây người ta gọi chúng tôi là ông chủ và cô chủ - cứ như thời xa xưa vậy. Tại đây chúng tôi được thưởng thức bầu không khí thanh lịch hiện đại cùng lúc với cổ kính hoang dà làm cuộc sống của chúng tôi thật êm dịu. Thị trấn nhỏ nhưng thể hiện chân thức – tuy mờ nhạt thôi – mối giao lưu ngọt ngào giữa một vài làng quê san sát, xen lẫn với vài toà nhà nằm rải rác được tân trang hàng năm do tiếp thu cái huy hoàng của tỉnh thành, và một số ngôi nhà lớn sang trọng khác vừa bề thế vừa ấm áp hiền hoà, tạo nên một sự đôi lập có thể chấp nhận được và không kém phần vui mắt. Chúng tôi đã chán những hành lang, phòng khách của bạn bè, sẵn sàng lui về ẩn dật tránh những chuyện tranh khôn, ngồi lê đôi mách, để trú ngụ giữa vẻ đẹp trang nghiêm của nhà thờ tu viện với tiếng chuông trong như tiếng bạc, hàng ngày nhắc nhở chúng tôi lời cầu nguyện, để đi dạo đấy bóng cây trong nghĩa địa của nhà thờ làm tâm hồn chúng tôi dịu đi, thỉnh thoảng chúng khiến mắt chúng tôi mờ lệ trước những tấm bia mộ của những người trẻ, người đẹp, người già, người khôn ngoan và người tốt bụng."

thay đổi nội dung bởi: APOLONG, 30-03-2009 lúc 01:51 PM. Lý do: Gộp 2 bài gần nhau
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #18  
Cũ 30-03-2009, 01:48 PM
APOLONG's Avatar
APOLONG APOLONG is offline
Điều Hành Viên
 
Tham gia: 14/11/2008
Họ và tên: Apolong
Bài viết: 677
Xã: Tình khác
Gửi tin nhắn qua Yahoo chát tới APOLONG
Default Trả lời : [Truyện Ma Kinh Dị] - Giếng Thở Than - [+16]

Đến đây tự nhiên đứt hẳn cả dòng chữ lẫn phong thái viết "nhưng bạn Emily thân mến nhất ơi, tôi không thể viết tiếp cho bạn theo kiểu chăm chú thận trọng xứng đáng để bạn đọc, phong cách mà cả hai ta đều ưa thích. Điều tôi muốn kể bạn nghe hoàn toàn khác với mấy ngày trước đây. Sáng nay lúc tới ăn điểm tâm, chú tôi có đem vào một vật từ ngoài vườn, một miếng thủy tinh hay pha lê gì đó dáng như thế này nà (có hình vẽ sơ) đưa cho tôi xem. Chú tôi đi khỏi, vật đó vẫn nằm trong tay tôi lúc lâu. Tôi nhìn đăm đăm vào đó, suốt mấy phút, chẳng biết vì lý do gì, cho đến lúc bị gọi đi giải quyết một số công việc nội trợ. Hẳn bạn sẽ không tin khi tôi nói là hình như trong miếng thủy tinh đó bắt đầu xuất hiện những cảnh không có trong gian phòng tôi đang ngồi. Chắc hẳn bạn không ngạc nhiên khi thấy tôi cứ có điều kiện một cái là đi ngay vào buồng riêng với cái vật tôi nghĩ là một bùa ngải có nhiều sức mạnh. Tôi không thất vọng. Bảo đảm với bạn, Emily ạ, vì tình thân yêu nhất giữa chúng ta, những gì tôi trải qua chiều nay đã vượt quá giới hạn cái điều mà trước đây tôi cho là đáng tin. Tóm lại, những gì tôi nhìn thấy, khi ngồi trong phòng ngủ giữa ban ngày ban mặt của mùa hè, nhìn sâu vào miếng thủy tinh nhỏ bé tròn trặn ấy, là như sau. Trước tiên, một quang cảnh rất lạ, một khoảnh đất có rào bao quanh ở nơi đồi núi có cỏ mọc, chính giữa là một đống đổ nát bằng đá xám và một bức tường đá thô thiển vây bọc xung quanh. Đứng trong khung cảnh đó là một mụ già vô cùng xấu xí mặc áo khoác đỏ, váy rách tả tơi, đang nói chuyện với một đứa bé ăn mặc theo kiểu một trăm năm về trước. Mụ đặt một cái gì đó lóng lánh vào bàn tay cậu bé, cậu ta thì đưa vào tay mụ ta một thứ mà tôi nhìn ra là tiền vì có một đồng rơi xuống cỏ từ bàn tay run run của mụ. Cảnh đó hết. Tôi còn có thêm một nhận xét nữa là trên tường của khoảnh đất gồ ghề ấy có những mẩu xương nằm lung tung, trong đó cỏ cả một cái sọ người. Cảnh sau là hai cậu bé. Một là cậu bé lúc trước, hai là một cậu nhỏ hơn, đang đứng trong một khu vườn có tường vây quanh, và tuy khu vườn bố trí có khác đi, cây cối chưa cao to lắm tôi vẫn nhận ra đó chính là khu vườn tôi nhìn thấy từ trên cửa sổ phòng tôi. Có vẻ như hai đứa đang chơi một trò chơi. Dưới đất lửa cháy ầm ĩ. Thằng lớn đưa hai bàn tay chắp lại trên đó rồi nâng lên như thể cầu nguyện, tôi giật mình thấy hai bàn tay nó vấy những vệt máu. Trời đầy mây. Vẫn thằng bé này quay mặt về bức tường bao quanh vườn, dùng hai tay giơ lên vẫy, tự nhiên thấy có cái gì động đậy trên bờ tường – không rõ là đầu hay mình, chân, tay của một con vật hay một người. Một lát sau thằng lớn quay ngoắt người lại nắm lấy cánh tay thằng nhỏ (lúc này đang nhìn chăm chăm vào một vật đang nằm dưới đất), cả hai vội vã chạy đi. Tôi nhìn thấy vết máu trên cỏ, một đống gạch con con, lông vũ bay rải rác. Cảnh này hết. Cảnh sau thì đen ngòm tôi không thấy có ý nghĩa gì, nhưng hình như tôi nhìn thấy một hình dáng nằm phủ phục giữa các bụi cây và các cây cao, gió mạnh đập vào nó phần phật, nó chạy đi và cứ thường xuyên quay lại nhìn sau vai tựa như sợ có ai đuổi theo và quả thật có những kẻ đuổi nó sát đằng sau, hình thù chúng mờ mịt thôi – độ ba, bốn kẻ như vậy – tôi đoán như thế, nhìn chung giống những con chó, nhưng lại không phải là chó, giả sử nhắm được mắt lại tôi cũng nhắm, nhưng không làm sao thực hiện được. Nạn nhân lao vào một cái cổng vòm nắm chặt vào một cái gì đó, đến đây bọn đuổi theo tóm được nó, nó kêu lên một tiếng tuyệt vọng. Đến đây tôi như mất tri giác. Cứ như thể vừa tỉnh giấc sau đêm đem ra ánh sáng ban ngày. Emily ạ, những gì tôi nhìn thấy – không thể dùng từ nào khác được – trong buổi chiều nay là như thế đó. Hãy bảo tôi, chẳng lẽ tôi đang chứng kiến một bi kịch liên quan đến chính ngôi nhà này?"

Hôm sau lá thư được viết tiếp như sau "Câu chuyện hôm qua hóa ra chưa hoàn tất. Tôi không kể gì cho chú tôi nghe cả - bạn biết đấy, một người khoẻ mạnh có lý trí làm sao tin được những chuyện như vậy, xua đuổi ám ảnh kiểu đó theo ông, chỉ cần làm một hơi rượu mạnh. Sau một buổi tối lặng lẽ, tôi rút về phòng nghỉ. Chưa kịp vào giường thì hãi hùng thay bạn ơi, một tiếng rống lên từ xa xa, rõ ràng là tiếng chú tôi, dù xưa nay chưa bao giờ chú tôi phải dùng sức đến như thế. Phòng chú ở tít đầu kia của căn nhà, muốn tới đó phải băng qua một căn phòng cổ chừng hơn hai chục mét, được ngăn bởi ván ép, sau đó qua hai gian phòng ngủ bỏ trống nữa. Phòng thứ hai trong số hai gian phòng này không có đồ đạc. Chú tôi ở bên trong, nến rơi xuống sàn làm phòng tối mịt. Tôi mang đèn chạy vào, chú tôi ôm chặt lấy tôi, run lên bần bật. Lạy Chúa, tôi chưa thấy thế bao giờ. Chú vội vã cùng tôi ra khỏi phòng, chỉ nói "Đến mai, đến mai" Một phòng ngủ tạm thời được dọn ngay cho chú bên cạnh phòng tôi. Hẳn đêm đó chú cũng như tôi, không yên ổn. Gần sáng tôi mới ngủ được, lúc mặt trời lên cao cũng là giấc mơ của tôi đen tối nhất – đặc biệt là giấc mơ đã in dấu vào tâm trí tôi, có cơ hội là tôi sẽ xua tan ấn tượng về nó ngay. Đó là lúc tôi vào trong phòng, linh tính thấy một thế lực xấu nào đó đang áp chế mình, vừa ngại ngần vừa miễn cưỡng không hiểu sao tôi đi đến chỗ cái tủ, mở ngăn kéo đầu tiên ra, trong chỉ có khăn tay và ru băng, ngăn thứ hai không có gì đáng ngại, nhưng trời ơi, ngăn thứ ba và thứ tư trong xếp đồ vải. Có cái gì động đậy, rồi một bàn tay màu hồng thò ra nắm nắm trong không khí. Tôi chịu không nổi, chạy vọt ra ngoài khoá cửa lại, nhưng không sao khóa được. Trong phòng có tưởng sột soạt lại gần cánh cửa, tôi không hiểu tại sao mình không vù xuống cầu thang mà cứ đứng lại nắm chặt quả đấm cửa, lúc nó bung ra khỏi tay tôi, tôi tỉnh dậy, tôi chợt thấy hoảng sợ vô cùng."
"Bữa ăn sáng hôm ấy chú tôi rất ít lời, tôi cho là ông ngượng đêm qua đã làm chúng tôi hãi hùng. Rồi ông hỏi tôi ông Spearman có trên tỉnh không, còn nói thêm là theo ông anh thanh niên này là người thông minh. Hẳn bạn biết, tôi đồng tình với ông về điểm này thành ra không trả lời. Ông đi đến chỗ Spearman, từ lúc ấy chưa về nhà. Tôi ghi ngay chùm tin tức này tới bạn, nếu không, phải đợi chuyến sau."
Độc giả chắc không ngạc nhiên khi đoán cô Mary và ông Spearman thành hôn với nhau không lâu sau tháng Sáu. Spearman là một chàng trai vui tính chưa vợ, có địa sản gần Whitminster, thường do công việc mà tới đó ở ít ngày, ở quán Kíng s Head. Anh ta hẳn có thì giờ rảnh vì nhật ký của anh ghi chép rất đầy đủ, đặc biệt trong những ngày tôi thuật lại câu chuyện này. Theo ý tôi, có lẽ anh đã viết về giai đoạn này vô cùng tỉ mỉ theo như cô Mary yêu cầu.


"Chú Oldys (hy vọng biết bao tôi sắp được gọi ông là chú không lâu nữa) đến chơi sáng nay. Sau khi nói chuyện tào lao một lúc, ông bảo "Spearman, tôi nói với anh một chuyện kỳ quặc này, anh hãy giữ kín một thời gian đợi khi nào sáng tỏ hơn hãy hay nhé?" "Vâng, chắc chắn, ông cứ tin ở tôi." "Không hiểu ra làm sao cả! Phòng ngủ của tôi thì anh biết rồi đấy, xa phòng tất cả mọi người, tới phòng tôi phải qua một phòng lớn và hai, ba phòng nhỏ gì đó" "Có phải nó ở đầu kia của căn nhà không ạ?" "Vâng, đúng sáng qua Mary bảo tôi là cạnh phòng tôi bị một giống côn trùng có cánh nào đấy làm ô nhiễm, bà trông nom nhà cũng không làm sao đuổi được. Theo anh, giải thích như thế nào?" "Xin ông cho biết giải thích về điều gì?" "Thực ra tôi cũng không biết. Nhưng bọn ong cắn lá nay là những con vật gì vậy? Kích thước nó thường như thế nào?" Tôi bắt đầu nghĩ ông Oldys có vấn đề trong đầu rồi. Tôi kiên quyết nói "Giống này theo tôi hiểu là loại côn trùng có chân màu đỏ, không lớn lắm, dài độ hai phân, thân nó rất cứng, theo tôi…" tôi định nói chúng ghê tởm lắm, không phải sinh vật lành, thì ông bảo "Độ hai phân à? Không phải bọn ong này!" "Tôi chỉ có thể nói tôi hiểu về chúng như thế nào thôi. Nhưng trước hết, xin ông cho tôi biết từ đầu đến đuôi chúng đã làm gì khiến ông hoang mang rối trí đã, sau đó tôi mới góp ý cho ông được." Ông nhìn tôi suy nghĩ "Có lẽ thế thật. Hôm qua tôi vừa bảo Mary chỉ có anh là người có chút tỉnh táo." (tôi cúi đầu chấp nhận) "vấn đề ở chỗ tôi ngượng nói ra. Trước đây tôi chưa gặp chuyện như thế bao giờ. Khoảng mười một giờ đêm, hoặc hơn, tối qua, tôi cầm cây nến đi về phòng, tay kia cầm quyển sách – thường tôi đọc ít trang sách trước khi ngủ. Kể ra đó là thói quen nguy hiểm. Tôi không khuyến khích ai bắt chước, nhưng tôi rất cẩn thận với lửa và mùng màn. Tôi bước ra khỏi phòng làm việc, sang hành lang ngay kế bên, khi đóng cửa, nến tắt. Tôi tưởng là do đóng cửa mạnh quá tạo luồng gió, chán nản vì diêm ở tận phòng ngủ. Vì biết đường tôi cứ thế đi. Tiếp đến quyển sách rơi xuống đất, cứ như có ai giật khỏi tay tôi. Tôi nhặt lên, càng nản và hơi giật mình. Nhưng như anh biết, hành lang nhiều cửa sổ, không rèm, mùa hè không chỉ nhìn tỏ rõ đồ đạc mà còn thấy rõ có ai đi lại hay không – mà thực ra không có ai cả. Qua hành lang lớn và một phòng nhỏ nữa cũng có cửa sổ lớn, rồi đến những phòng dẫn vào phòng ngủ của tôi, rèm kéo kín, tôi đi chậm lại vì có tiếng bước chân. Lúc đến phòng thứ hai trong dãy những phòng đó, tôi suýt mất quietus – yên bình. Mở cửa ra tôi biết ngay có vấn đề bất thường…"

"Thú thật là có đến hai lần tôi đã nghĩ nên quay lại không đi vào phòng ngủ qua đường đó thì tốt hơn. Nhưng rồi tôi tự thấy xấu hổ với bản thân, thế nào là tốt hơn mới được chứ? Xin mô tả đúng những gì tôi thấy. Có tiếng động khô và nhẹ, cứ sột soạt ở trong căn phòng mà tôi bước vào, và rồi (anh nhớ cho là nó tối om) một vật rượt đến chỗ tôi – nói sao bây giờ nhỉ - tay nó dài loằng ngoằng, hay là chân, hoặc bộ phận tua vòi gì đó, quấn lấy tay tôi, cổ tôi, thân mình tôi. Quấn không mạnh, Spearman ạ, nhưng nó gây cảm giác ghê tởm chưa từng thấy trong đời. Nó tìm cách tống tôi ra. Tôi rú ầm lên, vứt bừa cây nến xuống, và vì đứng gần cửa sổ, tôi xé rèm ra, cho ánh sáng lọt vào. Một cái gì như chân loài sâu bọ vẫy vẫy, kích thước nó thì khổng lồ, cao to như tôi vậy. Thế mà anh bảo loại ong ấy dài có một, hai phân? Anh thấy sao, Spearman?"
"Lạy Chúa, ông cứ nói hết đi đã, tôi chưa nghe chuyện nào như vậy bao giờ."
"Ồ, nhưng còn gì đâu mà nói.Mary cầm đèn chạy đến thì không thấy gì nữa hết. Tôi không kể với nó gì cả, họ đổi phòng ngủ cho tôi."
"Trong phòng ấy có để gì không?"
"Phòng ấy chúng tôi không sử dụng, có một cái tủ cổ lắm rồi với vài đồ đạc lặt vặt."
"Tủ đựng gì?"
"Tôi không biết. Chưa ai mở ra cả. Nhưng tôi biết là nó được khoá chặt."
"Phải xem trong đó có gì, nếu ông có thì giờ ta cùng tới đó luôn."
"Tôi không dám đề nghị với anh, anh đưa ý kiến ra hay quá. Giờ nào anh đi được?"
"Còn lúc nào tiện lợi hơn lúc này?"
"Tôi biết ngay, biết ông không muốn để lâu" Ông đứng dậy rất nhanh, nhìn tôi, vẻ nhất trí.
"Ta đi thôi."
"Trên đường về nhà, ông không nói gì thêm. Mary của tôi (ông vẫn gọi cô như vậy trước mặt mọi người, tôi thì tôi gọi riêng tư thôi) được gọi tới, chúng tôi đi vào căn phòng. Lúc trước, tuy ông tiến sĩ đã đi xa đến độ nói ra đêm qua bị hoảng sợ - vì chuyện gì thì chưa nói với cô – nay ông kể tóm tắt câu chuyện. Gần tới địa điểm quan trọng ông nhường tôi đi trước."
"Đây phòng này đây, Spearman. Anh vào đi, rồi ra cho chúng tôi biết có chuyện gì?" Tôi nghĩ giữa trưa cảm giác sao giống lúc nửa đêm được, tôi đẩy toang cửa, tự do bước vào. Một căn phòng sáng sủa, bên phải có cửa sổ to mặc dù thông khí không được tốt lắm. Đồ đạc chính là một cái tủ gỗ đen, đã cổ. Một cái giường có bốn cọc màn, chỉ còn bộ khung, không che giấu nổi cái gì. Thêm một tủ com mốt nhiều ngăn kéo. Trên bậu cửa sổ và sàn nhà vô vàn ong cắn lá đã chết thẳng cẳng, còn một con đang lờ đờ, tôi giết chết một cách thích thú. Thử mở cánh cửa tủ. Nó bị đóng chặt, các ngăn kéo cũng bị khoá trái. Tôi ý thức được là quanh đó có tưởng sột soạt nhè nhẹ, nhưng không định vị được chỗ nào. Khi ra ngoài tôi cũng không nói ra việc này, chỉ bảo, phải mở các ngăn kéo xem sao.


Chú Oldys quay ra bảo Mary:
"Tìm bà Marple"
"Mary chạy đi, tôi dám chắc không ai bước đi được như nàng, sau đó mau mắn trở lại với một bà lớn tuổi nom kín đáo."
"Bà Marple, bà có chìa khoá những ngăn kéo này không?" Chú Oldys chỉ nói có mấy chữ đó mà bà tuôn ra một tràng dài (không dữ dội, chỉ nhiều lời). Giả sử ở cương vị cao hơn trong xã hội chắc bà làm mẫu cho cô Bates được.
"Ồ, thưa tiến sĩ, thưa cô và thưa ông" bà nói, cúi đầu chào, nhận biết sự có mặt của tôi. "Chìa khoá của chúng ư? Ai đến đây ấy nhỉ, khi chúng ta lần đầu tiên nhận các thứ trong nhà này? À, một doanh nhân quý tộc, tôi có mời ông ấy ăn trưa trong phòng khách nhỏ vì ta chưa có mọi thứ trong phòng khách lớn như bây giờ - ăn thịt gà, bánh táo, một ly rượu Maidura – trời ơi, chắc cô Mary sẽ bảo tôi đi lan man, nhưng chỉ cốt để nhớ lại thôi, à, Gardner, cũng như cách tôi nhớ lại đã để atisô và quyển kinh ở đâu. Ông Gardner ấy, chìa nào tôi nhận của ông ấy cũng dán nhãn mở chỗ nào trong nhà này, cửa nào chẳng hạn, có khi hai chìa, tôi nói cửa có nghĩa cửa ra vào chứ không phải cửa tủ như thế này. Vâng, thưa cô Mary, tôi hiểu rồi, chỉ là để chú cô và ông đây biết rõ. Nhưng lại còn có một cái hộp, cũng ông ta đưa cho tôi giữ. Ông ấy đi rồi, biết chắc nó thuộc về chú cô nên đã liều lắc nó xem sao, chắc chắn trong có mấy cái chìa khoá, thưa ông tiến sĩ, để mở đâu đó nữa, nhưng tôi không dám mở cái hộp ra."
"Tôi rất lấy làm lạ thấy chú Oldys không ngắt lời, Mary thì có vẻ thích thú, có lẽ chú đã có kinh nghiệm thà chịu đựng để cho bà ấy nó, cuối cùng mới bảo:
"Thế cái hộp đó bà có tiện tay đem ra đây không?"
"Thế là bà Marple lấy ngón tay chỉ vào chú như cảnh sát hoặc lấy đó làm một thắng lợi u ám:
"Này thưa ông, tôi mà được phép chọn những từ do chính ông nói ra thì chính là những từ ấy đấy. Ông dùng đến năm chục lần, kể cả năm sáu lần quở trách tôi. Thế này, nằm chong mắt trên giường, hoặc ngồi trên chiếc ghế, ông và cô cho tôi ngày tôi vào làm việc với nhà ta đã hai mươi năm – một chỗ làm không đâu tốt hơn – đó là sự thật, cô Mary ạ, không ai có thể mong muốn khác đi. Tất cả đều tốt đẹp, tôi tự khẳng định, nhưng này, nếu như tiến sĩ hỏi bà cái hộp đó đâu thì bà trả lời thế nào?"
"Không tiến sĩ ạ, giá như ông là ông chủ khác và tôi là đầy tớ khác kia, thì nó lại dễ, đàng này sự thể nó lại là, về mặt tình cảm con người mà nói, nếu như ông không để cô Mary đến phòng tôi giúp tôi, nhờ sự khôn ngoan của tôi biết đâu tôi nhớ lại được những gì đã tuột khỏi đầu óc. Thì cho dù cái hộp bé như thế, khó lòng ông nhìn thấy được nó trong nhiều ngày sắp tới đây."
"Bà Marple, thế sao bà không bảo tôi ngay từ đầu để tôi giúp bà nhớ lại mà tìm ra nó?" Mary của tôi nói.
"Thôi cô đừng bảo tôi vậy làm gì, ta tới ngay phòng tôi thôi để tìm nó." Hai người vội vàng đi. Tôi vẫn nghe tiếng bà Marple phân trần, giải thích việc này còn kéo dài mãi tới tận góc xa nhất của khu vực mà người trông nom nhà cửa ở. Còn lại tôi và chú Oldys. Chú nói "Một đầy tớ đáng giá." Chú vừa nói vừa gật đầu về phia cửa, "làm việc gì cũng tốt, chỉ phải tội nói cái gì cũng lâu trên ba phút."
Tôi hỏi:
"Làm thế nào mà cô Oldys lại giúp bà ấy nhớ ra cái hộp được ạ?"
"Mary ấy à? Cô ấy sẽ bảo bà ngồi xuống, hỏi thăm về trận ốm cuối cùng của dì bà ấy, hoặc ai cho bà con chó bằng sứ để trên mặt lò sưởi – tức là những việc hoàn toàn chẳng liên quan. Rồi như bà Marple vẫn nói, chuyện này nảy sinh chuyện kia, bà nhớ dần và nhớ ra đúng cái vật đi tìm, nhanh hơn ta tưởng. Đó! Tôi đã nghe họ quay lại kia kìa!"


"Quả vậy, bà Marple vội vã đi trước Mary, mặt mày rạng rỡ, tay cầm cái hộp, tới gần, bà kêu lên:
"Trước khi từ Dorsetshire đến chốn này, tôi đã nói câu gì ấy nhỉ? Chẳng phải vì thân tôi là một người đàn bà Dorset hoặc cần phải là đàn bà Dorset mới nói như vậy. Cất kỹ, thế nào cũng tìm thấy." Đúng là ở cái chỗ tôi cất nó ba tháng trước đây, dám chắc vậy."
Bà đưa nó cho chú Oldys, tôi và chú xem xét nó với một chút lưu tâm, tôi không còn chú ý gì đến bà Ann Marple nữa, dù tôi biết bà sắp sửa trình bày chi tiết cái hộp nằm ở đâu và bằng cách nào Mary đã giúp bà nhớ ra nó."
"Nó là một cái hộp cổ lỗ buộc dây hồng và gắn xi, trên nắp dán một cái nhãn ghi bằng thứ mực đời xưa. "Nhà của giáo sĩ cao cập hưởng lộc Chúa, Whitminster." Mở ra có hai chìa khoá cỡ vừa, với một tờ giấy trên có chữ của cùng một người viết cái nhãn "Chìa khoá tủ và bộ ngăn kéo ở trong căn buồng bỏ không" Thêm vào đó "Các vật trong hai tủ này do tôi lưu giữ - sau này sẽ tiếp tục được lưu giữ bởi những kẻ kế tục tôi ở tại căn nhà này – cho gia đình quý tộc Kildonan, nếu như người nhà họ có ai còn tồn tại và hỏi đến nó. Tôi đã dò hỏi, tìm hiểu kỹ và biết là cả gia đình quý tộc này nay đã tuyệt tự. Vị bá tước Kildonan cuối cùng ai cũng biết là đã tử nạn ngoài biển, con cái thừa kế duy nhất của ông đã chết ở gần nhà tôi (giấy tờ về tai hoạ đáng buồn này để cả trong tủ, vào năm 1753 sau Công nguyên, ngày 21 tháng 3) Ý kiến của tôi là ngoại trừ trường hợp đặc biệt băn khoăn lo lắng lắm thì người giữ chìa khoá này – không phải thuộc gia đình Kildonan – mới được mở tủ ra, còn nên nghe theo lời khuyên của tôi đừng động đến các thứ đó. Ý kiến này tôi nói ra sau khi đã cân nhắc kỹ mọi lý do, ý kiến của tôi cũng được các thành viên của học viện và nhà thờ này, những người thông tỏ sự việc ghi trong các giấy tờ nói trên, tán thành. Tho.Ashton, S.T.P., giáo sĩ cao cấp hưởng lộc Chúa. Will.Blake.S.T.P., tu viện trưởng, Hen.Goodman, S.T.B., giáo sĩ cấp cao hưởng lộc Chúa."
"Ái chà!" Chú Oldys kêu lên. "Băn khoăn lo lắng lắm! Hẳn ông ta đã thấy là có vấn đề. Tôi nghi cậu chàng trẻ tuổi này" chú lấy chìa khoá chỉ vào chữ con trai thừa kế duy nhât "Này Mary, tử tước Kildonan chính là Saul chứ ai!"
"Làm sao mà chú biết?" Mary hỏi.
"Còn sao nữa, trong quyển Debrett có viết cả đấy, cái quyển nhỏ, dày dày ấy mà. Nhưng chú muốn nói là nói ngôi mộ cạnh con đường trồng chanh kia! Cậu ta ở đấy. Chuyện như thế nào nhỉ? Bà Marple, bà có biết không? Kìa, bà nhìn lũ côn trùng của bà ở cửa sổ kìa!"
"Bà Marple, **ng đầu với hai chủ đề cùng một lúc, bà lúng túng không biết nên đánh giá thế nào cho đúng cả hai. Kể ra chú Oldys cũng hơi hấp tấp khi cho bà cơ hội này. Tôi chỉ có thể đoán chú hơi ngần ngại sử dụng chiếc chìa khóa đang cầm ở tay."
"Ồ, lũ ong, thưa tiến sĩ, thưa cô, chúng đến là tệ hại, cả ba bốn ngày nay rồi, cả ông nữa, các vị không đoán nổi nó tệ hại đến thế nào đâu. Mà chúng ập đến mới ác liệt chứ! Hồi chúng tôi đến căn phòng đó, các cửa chớp mở hết có ai thấy con ong nào đâu, từ bao năm rồi ấy chứ! Chúng tôi phải khó khăn lắm mới hạ được các cửa chớp xuống, và để thế cả ngày. Hôm sau tôi cử Susan đến quét dọn, mới chỉ chưa có hai phút cô ta chạy bổ ra như một người mù, chúng tôi thay nhau đập bọn chúng ra khỏi mũ, tóc, banh mắt cô ta, các vị không biết màu tóc cô ta lúc ấy thế nào đâu. May thay cô ta không phải người yếu bóng vía. Nếu là tôi thì tôi đã hoá rồ rồi. Ấy thế mà bây giờ chúng nằm chết la liệt. Thứ hai chúng còn sống dữ dội như thế, hôm nay mới thứ năm, à thứ sáu! Chỉ cần đến gần cánh cửa là chúng đã đập ầm ầm ở phía trong, mở ra một cái chúng ùa đến như muốn ăn sống nuốt tươi ta. Tôi cứ nghĩ "Nếu mình là con dơi, không hiểu đêm nay mình sẽ ở đâu? Mà khó lòng giết chúng như giết côn trùng bình thường. May cho ta quá! Lại còn cái ngôi mộ chung của hai cậu thanh niên nữa chứ, thật tội nghiệp" bà chuyển ngay sang vấn đề kia, sợ bị ai ngăn trở. "Tôi nói tội nghiệp vì nhớ lại hôm uống trà với bà Simpkins, bà vợ ông coi nhà thờ và nghĩa trang ấy, trước khi tiến sĩ và cô Mary đến đây, gia đình họ ở đây đã lâu đời rồi phải không ạ? Tôi dám nói là hàng trăm năm trong khu nhà này rồi cũng nên, các vị chỉ tay lên ngôi mộ nào trong nghĩa trang là họ đọc vanh vách tên và tuổi người nằm dưới mộ ngay. Còn nhận định của ông ta về cậu thanh niên ấy ấy à, tôi muốn nói ý kiến của ông Simpkins ấy – thì …chà!" Bà mắm môi, gật gật cái đầu rất nhiều lần.
"Kìa bà Marple, kể cho chúng tôi nghe đi chứ" cô Mary bảo. Còn chú Oldys thì nói "Nói tiếp đi, bà Marple!"
"Còn tôi thì sốt ruột "Cậu ta làm sao?"
Bà Marple liền kể "Chưa bao giờ nơi đây chúng ta lại có một sự việc như thế kể từ thời Nữ hoàng Mary và Đức Giáo Hoàng. Các vị đều biết cậu ta sống gnay chính trong ngôi nhà này – và bọn họ cùng sống ở đây mà – tôi có thể nói chính xác cậu ta sống trong căn phòng này" (bà khó chịu đổi chỗ hai chân trên sàn)"
"Bà bảo ai sống với cậu ta kia? Bà muốn nói những người sống trong căn nhà này ấy à?" Chú Oldys nghi ngờ hỏi.
"Trời ơi, không, thưa tiến sĩ, gọi họ là người sống cùng kể cũng không đúng," bà trả lời, "Đó là những kẻ cậu ta mang từ Ireland đến. Không, những người trong căn nhà này chỉ là những người cuối cùng nghe được chuyện từ những hành vi, xử sự lạ lùng của cậu ta mà thôi. Cả vùng này chẳng gia đình nào là không biết đêm đêm cậu ta đi đâu. Những kẻ cùng đi với cậu ta là những kẻ có thể lóc thịt một đứa trẻ con trong huyệt của nó. Còn theo lời ông Simpkins thì một trái tim khô héo chỉ có thể trở thành một con ma xấu xí mỏng manh. Cuối cùng lũ ma trị cậu ta, chúng tóm được cậu, ông Simpkins bảo, vết tích vẫn còn trên cánh cửa nhà thờ tu viện nơi chúng hạ gục cậu. Còn gì bằng chính mắt mình nhìn thấy. Tôi đã bảo ông ta đưa tôi ra tận nơi xem mà. Cậu ta là một Lord đấy, chứ có ít đâu, tên thì lại là tên một ông vua xấu xa, chẳng hiểu các cha đỡ đầu của cậu ta nghĩ ngợi ra sao."


"Tên cậu ta là Saul mà," chú Oldys nói.
"Dạ vâng, chính thế, cảm ơn tiến sĩ, và chẳng phải chúng ta đã nghe vua Saul dựng những con ma đang thiu thiu ngủ trong những nấm mồ của chúng lên, ông ta khuấy đảo bọn chúng đến phải dậy thì thôi là gì? Mà lạ lùng, Lord trẻ tuổi này cũng có cái tên như thế mới lạ chứ. Ông nội của ông Simpkins một đêm nhìn ra ngoài thì thấy cậu ta đi hết từ nấm mồ này sang nấm mồ khác, tay cầm cây nến, theo sau sát gót là một lũ ma lướt trên cỏ. Một đêm cậu đến thẳng cửa sổ cụ Simpkins áp mặt vào ô kính cửa sổ để xem có ai trong phòng nhìn ra thấy được cậu ta không. Vừa vặn cụ Simpkins núp mình ngay dưới chân cửa sổ và im lặng đến không dám thở nữa, khi cậu ta bước đi như thế thì đàng sau vang lên những tiếng bước chân khác sột soạt trên cỏ. Sáng hôm sau cụ nhìn ra ngoài cửa sổ thì thấy những vết chân của một bộ xương người.Ôi, thật là một thằng bé độc ác, chắn hẳn là như vậy rồi, nhưng cuối cùng nó đã phải trả giá, cả sau đó nữa."
"Cả sau đó nữa?" chú Oldys hỏi, cau mày.
"Phải ạ, thưa tiến sĩ, đêm này qua đêm khác, thời ông nội ông Simpkins! Cả thời cụ sinh ra ông Simpkins bây giờ nữa, và ngay cả ông Simpkins! Cũng tại cánh cửa sổ đó, nhất là vào những đêm giá lạnh, họ có đốt lò sưởi trong phòng, nó áp mặt vào ô kính cửa sổ, hai bàn tay vẫy vẫy, miệng nó cứ há ra rồi ngậm lại, mấy phút liền như thế, sau đó đi ra nghĩa trang tối đen. Những lúc ấy mà mở cửa sổ ra thì họ không dám, mặc dù trái tim họ đầy thương cảm đối với thằng bé tội nghiệp, tái mét, tê buốt đi vì giá rét, và xem ra năm này qua năm khác, tiêu đi không còn là một cái gì hết. Phải, quả vậy, tôi hoàn toàn tin là theo như lời ông Simpkins nói, nhắc lại lời ông nội mình "Một trái tim khô héo tạo nên một con ma xấu xí còm cõi."
"Tôi cũng nghĩ vậy đấy" chú Oldys đột nhiên nói, đột nhiên đến mức bà Marple đang nói bỗng ngừng ngay lại. "Cám ơn bà. Thôi, tất cả chúng ta đi ra khỏi phòng này thôi."
"Kìa chú," Mary bảo "thế chú không mở tủ ra ư?" Chú Oldys đỏ mặt lên, đỏ thực sự ấy. "Cháu yêu" ông nói "cháu có thể cho chú là thằng hèn hoặc hoan hô chú là một người khôn ngoan, tuỳ cháu. Nhưng bản thân chú thì không bao giờ mở cái tủ đứng đó cũng như những ngăn kéo của cái com mốt này, mà cũng không giao những chìa khoá này cho cháu hoặc cho ai khác. Bà Marple, bà tìm cho một hai người khiêng mấy thứ đồ đạc này lên tầng áp mái cho." "Và khi họ làm việc đó," Mary bảo "tôi cảm thấy – không hiểu tại sao – nàng có vẻ nhẹ mình chứ không thất vọng vì quyết định của ông chú, "Tôi cũng có một thứ nữa muốn cất lên trên đó cùng với chúng, chỉ là một gói nhỏ thôi."
"Chúng tôi miễn cưỡng rời căn phòng, theo tôi nghĩ. Lệnh của chú Oldys được thực hiện xong trong ngày hôm ấy. "Và thế là" ông Spearman kết luận "Whitminster có một căn phòng của Con Yêu Râu Xanh, riêng tôi vẫn cho rằng, đến lượt vị giáo sĩ cao cấp hưởng lộc Chúa kế tiếp đến ở nơi này trong tương lai, thế nào cũng lại có một Jack-in-the-box [2] chờ đợi ông ta cho mà xem."

Chú thích :
[1] Chú thích của tác giả: nhân vật định nói là có vẻ là con tò vò, không phải con ong cắn lá
[2] Hộp đồ chơi có lò xo, khi mở nắp thì một hình người bật lên. Ý nói một điều bất ngờ

thay đổi nội dung bởi: APOLONG, 30-03-2009 lúc 01:52 PM. Lý do: Gộp 2 bài gần nhau
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #19  
Cũ 31-03-2009, 07:33 PM
APOLONG's Avatar
APOLONG APOLONG is offline
Điều Hành Viên
 
Tham gia: 14/11/2008
Họ và tên: Apolong
Bài viết: 677
Xã: Tình khác
Gửi tin nhắn qua Yahoo chát tới APOLONG
Default Trả lời : [Truyện Ma Kinh Dị] - Giếng Thở Than - [+16]


++++++++++++++++++++++++++++++


Chương XVII

Phòng bán đấu giá của một hãng bán đấu giá sách nổi tiếng ở London dĩ nhiên là nơi tập hợp đông đảo các nhà sưu tầm, nhân viên thư viện và những nhà buôn sách, chẳng những trong lúc tiến hành cuộc đấu giá, mà còn cả những khi sách mới tới được trưng bày ra để bán. Từ một phòng như vậy đã bắt đầu loạt sự kiện đáng chú ý sau đây mà tôi được nghe chi tiết cách đây vài tháng, bởi một ông James Denton, cử nhân văn chương, thành viên hội sưu tầm đồ cổ…đôi khi ở toà nhà Trinity, nay thì, hay là gần đây, ở thái ấp Rendcomb, quận Warwick.
Một ngày mùa xuân năm gần đây, ông lên London vài ngày có việc, nhân thể mua ít đồ đạc cho toà nhà mới xây xong ở Rendcomb. Hẳn các bạn thất vọng khi biết rằng Rencomb là toà thái ấp mới, biết làm sao được! Trước kia, nó cổ xưa lắm, nhưng cũng chẳng đẹp gì hoặc có gì đáng quan tâm khiến người ta chú ý. Mà dù đẹp hay đáng quan tâm cũng chẳng thoát được trận hỏa hoạn xảy ra cách đây mấy năm đã thiêu nó trụi sạch. May thay những thứ quý giá đã được chạy kip và ngôi nhà được bảo hiểm hiểu. Chẳng thế mà ông Denton khá nhẹ nhàng khi phải đối mặt với nhiệm vụ xây lại một ngôi nhà vừa mới lại vừa tiện nghi cho ông và bà dì, hai thành viên tạo thành gia đình – ménage – của ông.
Đang ở London, có thời gian, lại không xa phòng bán đấu giá nói trên là mấy, ông Denton tội gì không bỏ ra một giờ đồng hồ mà đến đấy, biết đâu may mắn vớ được bộ sưu tập các bản viết tay nổi tiếng của Thomas mà ông biết đang được trưng bày, trong đó có lịch sử cùng những bản đồ địa hình của khu thái ấp của ông ở Warwickshire.
Ông bèn đến đó, mua một quyển catalog ở phòng bán sách, nơi sách trưng bày được xếp trong hòm, một số trên bàn dài. Bên các giá sách hoặc ngồi quanh bàn là những bộ mặt quen thuộc, ông gật đầu chào hỏi khá nhiều người, sau đó ngồi xuống đọc quyển catalog, ghi chép một số mục. Đọc qua khoảng hai trăm trong số năm trăm lô – thỉnh thoảng ông đứng dậy nhấc một quyển khỏi giá sách và liếc qua một cái – thì có một bàn tay đặt lên vai ông. Ông nhìn lên. Đó là một trong số các trí thức râu nhọn mặt sơ mi flanen, thứ áo mà vào những năm cuối cùng của thế kỷ mười chín người ta sản xuất ra nhiều vô kể.


Tôi không có ý định kể ra đây toàn bộ cuộc trò chuyện trao đổi giữa hai người, chủ yếu nói tới những người quen chung, thí dụ như người cháu của bạn ông Denton mới lấy vợ và định cư ở Chelsea, em dâu của bạn ông Denton bị ốm nay đã khá hơn, rồi đồ sứ mà bạn ông Denton mới mua được với giá hời cách đây vài tháng – qua đây hẳn các bạn hình dung gọi là độc thoại thì đúng hơn là trao đổi. Tuy nhiên, sau một lát thì người bạn nghĩ hẳn ông Denton tới đây phải nhằm mục đích gì chứ, bèn hỏi "Ông có định tìm thứ gì đặc biệt không đấy? Ở lô này theo tôi nghĩ không có gì mấy." "Tôi cứ tưởng ở đây thế nào cũng có bộ sưu tập về Warwickshire cơ, hoá ra trong catalog có vẻ như không có." "Không có đâu" người bạn nói "à, nhưng mà tôi vừa mới thấy một cuốn nhật ký về Warwickshire hay sao ấy. Tên người viết là gì nhỉ…Drayton, Potter, Painter?..Chỉ biết nó bắt đầu bằng chữ P hay dường như, điều này thì tôi chắc."
Ông ta lật nhanh các trang giấy. "À, đây rồi, Poynter. Lô 486. Có thể ông quan tâm đấy. Còn sách thì ở ngay trên bàn đây này. Vừa có người đọc nó mà. Thôi tôi đi nhé."
"Chào ông. Lúc nào ông đến chúng tôi chơi nhé? Chiều nay được không? Bốn giờ có âm nhạc…Thế đành để lần khác vậy." Ông ta đi khỏi. Ông Denton xem giờ, cuống lên, sắp phải lấy hành lý ra ga. Vừa kịp nhìn thấy bốn tập nhật ký khá to – vào năm 1710, trong đó đưa ra đủ thứ chuyện mà cũng đáng để lại hai mươi lăm bảng tiền mua sách và tiền hoa hồng. Đúng lúc người nhân viên quen ông đi vào phòng.
Tối đó ông về với bà dì ở một căn nhà tạm – một cái nhà nhỏ, cách ngôi thái ấp chừng một trăm mét.
Ngày hôm sau hai người tiếp tục bàn luận về vấn đề đã từ nhiều ngày nay chưa ngã ngũ: trang bị cho ngôi nhà mới. Ông Denton kể cho bà dì nghe những việc đã thực hiện ở London, đặc biệt thảm, ghế ngồi, quần áo, đồ sứ trong phòng ngủ.
"Nhưng cháu ạ," bà dì nói "sao không thấy vải làm rèm cửa và bọc ghế nhỉ? Cháu chưa đến…?" Ông Denton bèn giậm chân xuống sàn (còn biết giậm ở đâu?) "Ôi trời ơi! Cháu quên mất việc này, rất tiếc, việc duy nhất cháu quên dì ạ. Đang trên đường đi hiệu vải thì cháu đi qua chỗ Robin!" Bà dì giơ hai tay lên trời "Robin! Thế là lại thêm mấy quyển sách kinh khủng với giá cắt cổ nữa! James, trong khi dì lo cho cháu bao nhiêu thứ thì cháu phải cố nhớ mấy việc dì bảo chứ! Cứ như là mua cho riêng dì không bằng! Chẳng lẽ cháu tưởng dì thích thú! Dì chán những việc đó ghê gớm! Cứ nghĩ, cứ lo về chúng đã đủ mệt. Cháu không hiểu đâu, cháu thì chỉ có việc đến hiệu mà đặt hàng thôi cũng không xong!" Ông Denton rên lên một tiếng hối lỗi "Ồ thưa dì" "Phải, dì không muốn gay gắt làm gì, nhưng cháu phải hiểu là nó làm chậm toàn bộ công việc của chúng ta không biết bao lâu. Hôm nay thứ tư rồi, mai thì nhà Simpson đến chơi, cháu không bỏ họ được. Mà nhà cửa như thế này trông kỳ lắm James ạ. Mà phải lịch sự với hàng xóm chứ. Chúng ta có phải là gấu đâu. Dì biết nói sao? Thôi đã thế này thì phải thứ năm sau cháu mới đi lên London được, chưa xác định được vải làm rèm cửa và bọc ghế thì chưa quyết định thêm được việc gì cả."


Ông Denton đánh liều đưa ý kiến rằng sơn và giấy dán tường đã được tính đến rồi, nhưng như thế thì giản dị quá, bà dì ngay lúc này chưa chịu chấp nhận. Mà bà chưa chịu chấp nhận thì ông Denton không thể đề xuất gì thêm. Tuy nhiên, đến chiều, bà nhượng bộ đôi chút. Chịu xem các mẫu, các bảng giá mà ông cháu trình bày, một đôi trường hợp còn nhiệt liệt tán thành là đàng khác.
Riêng ông Denton hơi lúng túng thấy mình chưa hoàn toàn nhiệm vụ, càng tiêu tan hy vọng về viễn cảnh buổi liên hoan mời bạn bè đến chơi tennis trên cỏ, mặc dù tổ chức vào tháng Tám thì thế nào cũng là tai hoạ nhưng vào tháng Năm thì chẳng sợ gì. Tuy nhiên, ông vui lên ngay khi nhận được giấy báo cho biết đã mua được bốn quyển nhật ký viết tay của ông Poynter với gái mười bảng hai silling, hôm sau còn vui hơn khi chính bộ nhật ký được gửi đến.
Vì phải đưa ông bà Simpson di một cuốc xe vào sáng thứ bảy, lại còn tiếp đãi khách khứa và láng giềng chiều hôm đó nên ông Denton đến tận tối thứ Bảy, lúc lên giường mới kịp mở bộ sách ra. Cho đến lúc ấy ông mới dám chắc (trước đây chỉ nghi ngờ) là quả đã mua được cuốn nhật ký của ông William Poynter, địa chỉ ở Acrington (cách giáo khu của bản thân ông độ bốn dặm). Cũng ông Poynter này có thời đã là thành viên hội sưu tầm đồ cổ ở Oxford, trung tâm của hội này là ông Thomas Hearne, người đã từng cãi nhau với Poynter – một tình tiết không bình thường trong sự nghiệp của con người ưu việc ấy. Về bộ sưu tầm của riêng Hearne thì nhật ký của Poynter có nhiều đoạn ghi chép lấy ra từ sách in, mô tả những đồng tiền và cổ vật khác mà ông ta đã mua. Mô tả trong catalog của phòng bán sách không nói lên hết cái hay của quyển sách này. Ông đọc quyển thứ nhất trong số bốn quyển đến tận khuya.
Sáng chủ nhật, sau khi đi nhà thờ về, bà dì tới phòng làm việc của ông, trông thấy bốn tập sách bọc da, giấy khổ bốn, quên bẵng hẳn đang định nói với ông cháu việc gì. Bà nghi hoặc hỏi "Sách gì vậy? Mới phải không? Thì ra là cái thứ làm anh quên mất cái món vải hoa làm rèm cửa và bọc ghế! Ngán ngẩm quá! Anh trả họ bao nhiêu tiền thế? Trên mười bảng? Thật tội lỗi! Hừ, có tiền ném qua cửa sổ như vậy thà anh đăng ký cho tôi vào hội "Chống mổ xẻ sống" còn hơn – đăng ký đàng hoàng là khác. Chán kinh khủng…À mà anh bảo ai viết quyển này ấy nhỉ? Ông già Poynter ở Acrington à? Kể xem được giấy tờ cũ của láng giềng cũng hay đấy… Những mười bảng!" Bà nhặt lên một quyển, không phải quyển ông cháu đã đọc qua – vô tình mở một trang bà ném ngay xuống sàn vì có một con sâu bò ra. Ông Denton vội nhặt lên than vãn "Tội nghiệp quyển sách! Dì cứng rắn với ông Poynter quá!" "Vậy ư? Xin lỗi ông ta vậy, chứ tôi, tôi khiếp mấy con sâu ấy lắm. Đâu, để xem tôi có làm hư hại gì đến quyển sách không nào?" "Không, cháu nghĩ không sao đâu! Nhưng dì thử xem đã mở đúng vào trang nào kìa!" "Trời ơi, thật vậy! Sao hay quá thể James, đừng có gấp lại, để gì nhìn xem nào!"


Nó là một mảnh vải có mẫu vẽ to bằng trang giấy khổ bốn, đính vào trang giấy bởi một cái đinh ghim. Ông Denton gỡ ra đưa cho bà dì xem, cẩn thận cất lại cái ghim vào trang sách.
Tôi không biết chắc đó là thứ vải gì nhưng trên có in mẫu thiết kế hoàn toàn làm bà Denton mê say. Bà mê mẩn đến nỗi bắt James cầm mảnh vải đứng sát tường, còn bà thì lùi lại ngắm từ xa xa, sau đó lại gần nhìn đăm đăm vào đó, cuối cùng dùng những lời ấm áp nhất ca ngợi ông Poynter đã có ý hay khi giữ lại mẫu vải trong nhật ký của mình. "Một mẫu cực kỳ duyên dáng, lại đáng chú ý. James, nhìn mà xem, những đường nét như nhấp nhô uốn lượn, cứ như làn tóc ấy, giống hệt, phải không nào? Thỉnh thoảng lại có cái nút thắt lại nữa, mà màu sắc mới hợp làm sao! Dì không hiểu…" James chiều ý bà dì, nói "Cháu đang định nói ta theo mẫu này làm vải rèm cửa thì không hiểu có đắt lắm không?" "Theo mẫu, cóp py lại hả, có được không?" "Cháu không rõ, nhưng vì là mẫu in nên người ta sao lên gỗ hoặc kim loại được chứ sao?" "James, ý tưởng tuyệt vời đấy, cháu quên đặt vải hoa hôm thứ ba hoá ra lại hay, dì hoàn toàn tha thứ cho cháu nếu cháu cho sao lại đúng như thứ vải dễ thương này. Không ai có thể có vải giống như thế, và James ạ, ta cấm họ không được bán ra ngoài. Thôi bây giờ dì phải đi đây. Quên biến chuyện định nói với cháu rồi."
Sau khi bà dì đi khỏi, James Denton bỏ ra ít phút ngắm kỹ lại mẫu in và lấy làm lạ không hiểu tại sao nó tác động đến bà dì mạnh thế. Theo ông, chẳng có gì đáng chú ý, cũng chẳng đẹp. Dĩ nhiên làm màn cửa thì cũng được. Nó là hình những sợi dây chạy dọc có xu hướng tập hợp lại ở đỉnh. Bà nói đúng, trông nó rập rờn, uốn lượn, như những lọn tóc. Phải, bây giờ tra sách chỉ dẫn thương nghiệp xem có hãng nào nhận sao lại mẫu in này không. Một đống sách được lập ra, ông Denton định ngày đến các hãng hoặc một số hãng, cầm theo mẫu.
Hai hãng đầu cũng không kết quả. Nhưng hãng có số độc, hãng thứ 3 Bermondsey lại ăn thua, họ chuyên môn sản xuất mặt hàng này. "Ông Cattell" của chúng ta rất chú ý đến mẫu. "Kể cũng lạ" ông ta nói "khi ta hình dung một số lượng lớn các mẫu vải thời trung cổ thực sự dễ thương như thế này rơi vãi trong biết bao ngôi nhà ở nông thôn nước ta chẳng được ai chú ý đến. Một số bị họ vứt vào sọt rác, số còn lại có nguy cơ bị mất hẳn, như lời Shakespeare, hèn mọn bị coi khinh. Tôi vẫn thường nói nhà văn ấy có ngôn từ cho tất cả chúng ta, thưa ông. Nhắc đến Shakespeare, tôi hoàn toàn hiểu mình cũng có giữ lại tất cả đâu. Hôm nọ có một nhà quý tộc vào chỗ tôi, ông tans tôi viết về vấn đề này, tôi vô tình có nhắc đến mấy lời về Hercules và tấm vải vẽ. Ôi giời, ông chưa thấy lắm chuyện lộn như thế bao giờ đâu! Còn mẫu vải của ông đây, ông đã tín nhiệm giao cho, chúng tôi xin nhiệt tình đem hết khả năng mà con người có thể ra để thực hiện. Như tôi vừa mới nói với một khách hàng cách đây mấy tuần, sẽ tốt đẹp cả, hy vọng ông sẽ thấy. Xin ghi lại địa chỉ cho, ông Higgins."


Trên đây là nhận xét của ông Cattlell lần đầu gặp ông Denton. Một tháng sau ông Denton gặp lại ông ta để xem mẫu và quả gần như thật, vải có sợi dọc, nối với nhau trên đỉnh và chỉ cần sao cho màu sắc đúng như mẫu nữa thôi. Quan điểm của ông ta về ý muốn không phổ biến mẫu này thì có hơi khác.
"Thưa, ông nói không muốn vải này được cung cấp cho ai khác ngoài những bạn bè được phép của ông. Xin làm theo ý ông. Ông giữ độc quyền. Tôi hiểu. Ai cũng có tức là không của ai cả."
"Ông có cho rằng nó sẽ trở thành phổ biến nếu ai cũng mua được nó không?" Ông Denton hỏi.
"Tôi không nghĩ vậy, thưa ông" ông Cattell nghĩ ngợi, xoắn râu. "Sẽ không phổ thông, đầu tiên là không phổ thông với người khắc mẫu, đúng không, ông Higgins?"
"Ông ấy thấy khó sao?"
"Ông ấy bảo là không khó, về mặt nghệ thuật mà nói, từng thợ của chúng tôi đều là nghệ sĩ ấy chứ - nghệ sĩ thật sự theo đúng nghĩa của TỪ này – có thể thực hiện những việc dù là thích hay không thích, đây chính là một ví dụ. Mấy lần tôi có đến ông ta xem công việc tiến triển ra sao. Rõ ràng là ông ta thấy không ưa, ông ta khó tính mà, dù tôi không hiểu sự thể sâu xa là thế nào" - Hình như ông Cattell nheo mắt nhìn vào ông Denton – ông ta ngửi thấy có mùi ma quỷ gì đó ở trong cái mẫu vẽ ấy".
"Thật ư? Ông ta có bảo ông thế không? Tôi thì không thấy có gì là u ám thê thảm trong cái hình vẽ ấy cả."
"Tôi cũng vậy. Tôi bảo ông ta, Catwick, sao anh thành kiến thế - bởi tôi chỉ có thể gọi đó là thành kiến thôi. Nhưng ông ấy không giải thích được. Không. Không thể. Tôi đành chỉ nhún vai, và cui bono – kẻ có lợi phải chịu trách nhiệm về việc mình đang làm. Tuy nhiên, nó đây."
Phối màu sắc của nền mẫu vẽ, rèm và các chỗ thắt nút của ru băng là phần khó nhất chàng công việc, cần xem đi xem lại mẫu nguyên thủy để so sánh rất nhiều lần. Cuối tháng Tám và tháng Chín, hai dì cháu Denton có việc đi xa. Tháng Mười thì lượng vải sản xuất ra đã xong, đủ chăng rèm cửa cho cả ba, bốn phòng ngủ cả thảy.
Vào ngày mở tiệc Simon và Jude, hai dì cháu trở về thấy công việc đã hoàn tất, họ mãn nguyện đến cùng cực. Ai ở quanh đấy cũng hết lời khen ngợi những tấm rèm cửa. Khi ông Denton mặc quần áo để xuống ăn tối, phòng ông còn chất đầy thứ vải ấy, ông còn tự chúc mừng vì đã quên nhiệm vụ bà dì giao hôm trước nên mới đạt được kết quả sửa sai mầu nhiệm này. Ngồi ăn cơm, ông bảo màu vải sao mà thanh thản và không buồn tẻ chút nào. Bà Denton rất tán đồng – phòng bà không có thứ vải này.


Trong bữa điểm tâm sáng hôm sau thì những lời khen của ông giảm bớt "Cháu chỉ tiếc một điều" ông nói "là ta để họ cho các sợi dọc gặp nhau ở trên đỉnh. Cứ thả mặc chúng thì hay hơn."
"Ồ, sao lại thế?" bà dì hỏi.
"Đêm qua ngồi đọc sách nó cứ bắt mắt cháu ghê gớm, thỉnh thoảng cháu lại nhìn vào đó, thấy như có người đang ngó vào trong phòng qua các rèm, cháu nghĩ do các sợi nối lại ở trên, mà sao gió quá đi mất!"
"Tối qua làm gì có gió?"
"Hay là gió chỉ ở bên phía phòng của cháu? Đủ làm cái màn cứ rung rinh chao đảo, nó sột soạt làm cháu khó chịu lắm."
Tối đó có một ông bạn độc thân của James Denton đến ngủ lại. Ông khách ngủ trong một phòng cùng tầng với chủ nhà, nhưng ở cuối hành lang. Trên đường vào phòng khách, có một cửa ngăn bọc dạ đỏ để chắn gió lùa và ngăn tiếng động.
Ba người chia tay về phòng riêng. Bà dì trước nhất, rồi tới người bạn lúc mười một giờ. James Denton chưa vào giường ngay, còn ngồi trong ghế bành đọc sách một lát. Thiu thiu ngủ, lúc tỉnh lại ông nhớ ra con chó nâu Spaniel của ông hôm nay không lên phòng ông ngủ như mọi khi. Rồi ông nghĩ mình nhầm, khi vô tình duỗi tay xuống phía sàn nhà, ông cảm thấy bàn tay chạm vào thứ gì mượt như lông tóc, ông đưa bàn tay vuốt ve, một cái gì tròn tròn nhưng không có cảm ứng của một sinh vật, khiến ông phải nhìn xuống tay mình. Vật mà ông vuốt ve đó ở tư thế người nằm ngửa, cái mặt dâng lên gần ông thì không có hình thù gì hết chỉ có bộ tóc! Dù không hình thù nhưng nó đầy vẻ hằn học. Ông lập tức chồm dậy chạy ngay ra khỏi phòng, rên rỉ hoảng hốt và thấy mình chạy đi là phải. Tới cánh cửa bọc dạ đỏ ngăn hành lang – ông quên mất là cửa mở về phía ông – ông cứ ra sức đập vào nó trong khi có một cái gì cứ túm lấy ông ở đằng sau mỗi lúc một chặt hơn, cứ như thể có bàn tay nắm lấy ông – còn kinh hơn cả một bàn tay nữa – là của một kẻ đuổi theo đang căm giận. Sực nhớ ra cách mở cánh cửa, ông mở ra thoát sang phía bên kia rồi sập lại, lao vào phòng người bạn.
Có điều lạ là suốt thời gian tìm thấy mẫu hình ghim trong quyển nhật ký, chưa lúc nào ông Denton tìm lời giải thích về nó. Đọc qua cả quyển không thấy chỗ nào nói đến nó cả. Nhưng sau khi rời khỏi Redcomb (ông tự hỏi hay là rời hẳn?" ông mang theo quyển nhật ký, và bên bờ biển, ông ngồi trong nhà nghỉ xem thật kỹ trang sách mà mẫu vải ghim vào. Hoá ra có hai ba trang giấy dính vào nhau, đúng như ông nghi ngờ, soi lên ánh sáng thấy có chữ viết ở trong. Hơ vào hơi nước nó rời ra ngay và quả là viết về mẫu hình đính vào đó.
Đoạn này viết vào năm 1707.
"Ông già Casbury, ở Acrington, hôm nay kể tôi nghe thật nhiều về ông Everad Charlett trẻ tuổi, theo học Đại học tổng hợp, họ hàng với tiến sĩ Arthur Charlett, giờ là hiệu trưởng trường đại học Y..Anh chàng Charlett này là một nhân vật qúy tộc trẻ tuổi, rất vô thần, một tên phóng túng, họ gọi kẻ say sưa chè chén như vậy. Theo như người ta ghi lại, là đối tượng để mọi người chỉ trích vì thói hoang tàng. Nếu mọi trụy lạc bê tha của anh ta lộ hẳn, anh ta đã bị đuổi khỏi trường đại học Y..Chắc là anh ta phải được chiếu cố gì đó, ông Casbury nghĩ vậy. Anh ta rất đẹp mã và thường xuyên dùng bộ tóc thực của mình, tóc rất dài rậm. Vì bộ tóc ấy và vì lối sống buông thả, anh ta được mệnh danh là Absalom, chính anh ta cũng nói mình làm ngắn đi cuộc sống của cụ David [1] , tức là cha anh ta, ngài Job Charlett, một kỵ sĩ đáng kính".
Ông Casbury không nhớ rõ anh ta chết năm nào, 1692 hay 1693, chỉ biết là chết đột ngột tháng mười (nhiều dòng mô tả thói quen ăn chơi của anh ta bị lược bỏ). Mới thấy tinh thần anh ta phấn chấn trước đó, ông Casbury đột nhiên nghe tin anh ta chết. Nằm trong một cái rãnh ở trên phố, bộ tóc bị cắt sạch nhẵn. Chuông Oxford đã điểm khi anh ta chết – một vị quý tộc mà – và hôm sau anh ta được chôn ở St. Peter mạn Đông. Hai năm sau khi mộ anh ta được người nối nghiệp cho dời về địa sản của anh ta ở quê hương, áo quan vô tình bị bật ra, người ta thấy ở trong chỉ toàn có Tóc. Nghe hoang đường thật đấy, nhưng chuyện này có được ghi lại trong Lịch sử Staffordshire của tiến sĩ Plot."
"Phòng anh ta sau được dọn sạch đồ đạc. Ông Casbury có đến để làm các màn cửa, nghe nói cụ Charlett thiết kế mẫu màn cửa để kỷ niệm bộ tóc của anh ta, đưa cho ông Casbury một lọn tóc để theo đó mà làm theo mẫu. Tôi đính ở đây một mảnh vải ông Casbury cho tôi – ông nói hình vẽ vô cùng tinh tế nhưng ông chưa bao giờ nhìn kỹ và cũng không thích nhìn kỹ vào đó.?
"Tiền chi vào chỗ màn cửa được coi như ném vào lửa. Sau khi nghe chuyện, ông Cattell bình phẩm một câu dưới được trích dẫn Shakespeare, hẳn bạn đoán ra chẳng khó khăn gì, nó bắt đầu bằng những từ sau đây "Còn có nhiều thứ khác nữa".

Chú thích :
[1] Absalom: con trai vua David (thế X. trước Công nguyên) có bộ tóc rất dài


Có một lần một nhà học giả quý tộc được ủy nhiệm nghiên cứu các tài liệu lưu trữ của nhà thờ lớn Southminster. Xem xét các văn thư này đòi hỏi khá nhiều thời gian. Tìm chỗ ở trong thành phố là tiện nhất. Hội đồng nhà thờ tuy sẵn sàng mời ông đến ở nhưng ông Lake thích làm chủ ngày tháng của mình hơn. Mọi người thấy thế cho là đúng. Giáo sĩ Trưởng của nhà thờ viết cho ông Lake, khuyên ông nếu chưa tìm được chỗ ở vừa ý, thì nên liên hệ với ông Worby, người trông coi giáo đường chính, hiện đang ở trong một căn nhà gần nhà thờ và hiện đang tìm một người thuê nhà yên tĩnh trong ba bốn tuần. Sự sắp xếp như vậy thật hợp ý với ông Lake. Thể thức và điều kiện thuê nhà được thoả thuận. Đầu tháng mười hai, nhà nghiên cứu chiếm lĩnh một căn phòng ấm cúng trong ngôi nhà cổ, cũng coi như nhà "thuộc nhà thờ."
Mọi người đã quen với các phong tục của nhà thờ, lại được giáo sĩ Trưởng và nhất là Tăng hội của nhà thờ kính nể, hẳn phải tôn trọng người trông coi giáo đường. Ông Worby thì thậm chí đã đi đến chỗ thay đổi một số nhận định tồn tại từ nhiều năm nay về các hội, đoàn đến thăm nhà thờ. Về phần mình ông Lake nhận thấy ông cai quản giáo đường là một người vui tính, do đó luôn tranh thủ mọi cơ hội để chuyện trò với ông ta sau một ngày làm việc.

Một buổi tối vào khoảng chín giờ, ông Worby gõ cửa phòng khách trọ và nói:
"Tối nay tôi có dịp sang nhà thờ. Trước đây tôi có hứa với ông khi có dịp tôi sẽ đưa ông đi thăm nhà thờ vào ban đêm. Trời hôm nay khô ráo và rất đẹp. Ông có muốn đi không ạ?"
"Nhất định là có rồi, ông Worby. Cám ơn ông đã nghĩ tới điều này. Để tôi lấy áo khoác."
"Đây, áo ông đây. Tôi xách theo cả cái đèn để dễ lên xuống các bậc tam cấp, đêm nay không trăng mà."
"Mọi người dễ tưởng chúng ta là Jasper và Durdles phải không ông?" Lake nói khi họ băng qua sân trong của nhà thờ. Ông biết chắc ông Worby đã đọc truyện Edwin Drood.
"Hẳn vậy" ông Worby cười " tuy nhiên tôi chẳng hiểu có phải đó có phải là một lời khen không. Cách thức ở cái nhà thờ này thật kỳ quái, ông có nghĩ vậy không? Ai đời hát lễ từ bảy giờ sáng, quanh năm suốt tháng, chẳng phù hợp với giọng ban trẻ đồng ca hiện nay. Đã có một hai người lớn đòi tăng lương nếu Tăng hội đưa vấn đề này ra, đặc biệt mấy người giọng nam cao."
Lúc này họ đã ở bên cánh ở phía Tây Nam. Trong khi ông Worby mở khóa, ông Lake hỏi:
"Ông đã thấy có ai vô tình bị khóa trong này chưa?"



"Hai lần. Lần thứ nhất là một anh lính thủy say rượu. Tôi nghĩ anh ta vào đây để ngủ trong khi chúng tôi hành lễ. Tôi đến chỗ anh ta thì anh ta đã đang cầu kinh ầm cả lên, tưởng sụt mái nhà thờ. Lạy Chúa! Anh ta gây tiếng động mới khiếp chứ. Đã mười năm nay chưa vào Nhà thờ nào! Lần thứ hai là các con chiên quen biết: bọn trẻ, chơi nghịch. Tuy nhiên, chúng không bao giờ làm như vậy nữa. Đó, thưa ông, ông đã được thấy nhà thờ vào ban đêm trông như thế nào, Giáo sĩ trưởng nhà thờ đã quá cố của chúng tôi cũng đôi khi dẫn người nọ người kia vào thăm nhà thờ như thế này, nhưng ông ấy thường đợi trăng sáng, ông hay đọc cho họ nghe một đoạn thơ nói về nhà thờ lớn ở Scotland, tôi cũng chẳng biết nữa, nhưng tôi nghĩ vào ban đêm tối tăm, đi thăm nó có tác dụng hơn. Hầu như ta sẽ thấy nhà thờ cao thêm, to hơn. Giờ thì ông cảm phiền, đứng chờ tôi trong gian lớn của nhà thờ, tôi phải vào chỗ hát thánh kinh có chút việc, ông sẽ thấy được cảm giác như tôi nói."
Lake đứng chờ, dựa vào một cây cột và ngắm nghía ánh sáng lung linh chiếu dọc theo chiều dài nhà thờ, theo từng bậc cấp chiếu lên khu hát thánh ca, cho đến khi bị chắn lại bởi vách ngăn giữa gian lớn với khu ngồi hát thánh ca hoặc các đồ đạc khác, chỉ còn thấy phản chiếu trên các cột hoặc mái nhà. Nhiều phút trôi qua, Worby xuất hiện ở cánh cửa khu đồng ca, vẫy đèn ra hiệu cho Lake lên chỗ ông ta.
"Cứ cho là chính ông ta, không phải ai khác" Lake nghĩ khi đi lên. Nhưng thực ra không có gì đáng lo ngại cả. Worby cho Lake xem các giấy tờ của giáo sĩ trưởng mà ông ta vừa lấy ra ở ghế ngồi hát thánh ca của ông này, hỏi Lake cảm tưởng ra sao. Lake phát biểu rất đáng đi xem. Họ cùng đi về phía bàn thờ, ông bảo:
"Ông Worby chắc thường vào đây có việc vào ban đêm thành ra chẳng cảm thấy bôn chồn nhỉ? Nhưng thỉnh thoảng ông có giật mình khi quyển sách rơi hay cánh cửa đung đưa chẳng hạn?"
"Không, ông Lake ạ, giờ thì tôi chẳng nghĩ đến tiếng động mấy, chỉ sợ có chỗ thoát gaz hoặc có cái ống nào từ lò sưởi vỡ ra thôi. Nhiều năm trước vẫn có chuyện đó đấy. Này ông có nhìn thấy cái nấm mộ đơn giản ở chỗ bàn thờ kia không nhỉ? Thế kỷ mười lăm đấy, ông có nhất trí không? Vừa rồi nếu chưa để ý nhìn thì ông có thể quay lại nhìn qua."


Ngôi mộ nằm về phía Bắc khu đồng ca, đặt hơi chướng. Các vách ngăn bằng đá có một mét. Hoàn toàn đơn giản, như lời Worby, nhưng cũng có ván ô bằng đá kiểu thông thường. Một cây thập tự bằng kim loại khá to ở hướng Bắc (ngay sát vách ngăn) – chỉ riêng cây thập tự là đáng chú ý phần nào.
Lake nhất trí nó ở vào thời kỳ kiến trúc thẳng đứng.
"Nhưng" ông nói "trừ phi của người nào quan trọng lắm, chứ xin lỗi ông tôi thấy chẳng có gì đáng nói."
"Vâng, tôi không thể bảo là của ai đó ghi trong lịch sử" Worby nói, mỉm cười khô khan "ta cũng chẳng còn ghi chép nào cho biết mộ xây cho ai. Nhưng nếu ông có thời gian độ nửa giờ nữa thì ta sẽ về nhà, ông Lake ạ tôi kể ông nghe một câu chuyện về cái mộ đó. Bây giờ thì không được, ở đây lạnh lắm, ta cũng không thể la cà suốt đêm."
""Dĩ nhiên là tôi rất muốn nghe."
"Được, tôi sẽ kể ông nghe. Nhưng xin hỏi ông một câu này." Ông ta nói tiếp khi hai người đi bên cạnh nhà thờ, "Trong sách hướng dẫn du lịch của địa phương cũng như sách về nhà thờ chúng tôi, trong cả loạt sách ấy, ông sẽ thấy phần này của nhà thờ được xây vào thế kỷ mười hai. Tôi rất vui lòng đồng tình với quan điểm này, nhưng - ấy, ông lưu ý bước chân, có bậc cấp đấy! – Nhưng, để tôi nói ông nghe nhé, Liệu theo cách đặt các viên đá như thế này (ông lấy chiếc chìa khoá gõ vào tường) chẳng lẽ ông cho đó là công trình xây từ thời Saxon? Không, tôi không nghĩ vậy. Tôi vẫn nói với mấy người ấy – một người ở thư viện đây và một người từ thư viện London tới – hàng năm chục lần về việc xây cất bằng đá này. Dĩ nhiên ai có quan điểm của người ấy".
Cuộc thảo luận về nét đặc biệt của bản chất con người còn làm bận tâm trí ông Worby cho đến khi hai người về tới nhà ông Worby. Phòng khách đốt sưởi ấm đặc biệt. Worby đề nghị hai người trôi qua nốt buổi tối ở đây. Họ yên vị không bao lâu sau đó.
Ông Worby kể câu chuyện này dài lắm, nhưng tôi không kể lại bằng chính lời ông ta hoặc theo đúng thứ tự lời ông ta. Vì Lake sau đó có ghi chép lại trên giấy, cùng với vài đoạn kể đúng từng từ như ông còn nhớ trong óc (mà trong chừng mực nào đó tôi thấy cũng nên cô đọng tư liệu của Lake)


Ông Worby sinh năm 1828. Cha ông gắn bó với nhà thờ lớn này cũng như ông nội ông. Cả hai đều đã ở trong ban đồng ca, về sau cả hai từng làm thợ nề (người ông) và thợ mộc (người cha). Riêng Worby, ông thành thực thừa nhận giọng ông xoàng thôi, nhưng cũng được tuyển vào ban đồng ca lúc mười tuổi.
Năm 1840 dấy lên làn sóng mạnh mẽ trùng tu Nhà thờ lớn Southmisnter theo kiểu gô tích. Worby thở dài, bao nhiêu là vật liệu được chở đến. Cha tôi không thể ngờ một hôm mình được lệnh dọn sạch khu đồng ca. Vừa có một giáo sĩ trưởng đến nhậm chức – giáo sĩ Burscough – Cha tôi thì đang tập sự tại một hãng đồ gỗ trong thành phố. Trông thấy khu đồng ca đẹp như vậy mà xót. Thật là phá hoại, cha tôi bảo. Ván ốp chân tường bằng gỗ sồi, đẹp như mới, các chùm lá, chùm quả hình vòng hoa, các trang trí lát vàng trên huy hiệu nhà thờ và các ống đàn organ. Tất cả ra sân hết – tất thảy mọi đầu mẩu, trừ vài tượng gỗ nho nhỏ được làm ở Nhà thờ Đức Bà và mấy đồ trang trí đặt trên bệ lò sưởi. Phải, có thể tôi nhầm, nhưng khu hát đồng ca từ đó trông không còn đẹp nữa. Vẫn còn nhiều điều cần tìm hiểu về lịch sử nhà thờ, vẫn còn nhiều chỗ cần sửa chữa. Vài mùa đông đã trôi qua, chúng tôi vẫn còn thiếu mất một cái chóp ở trên nóc nhà thờ". Ông Lake bày tỏ những tán đồng của mình về quan điểm trùng tu nhà thờ của ông Worby, tuy nhiên sợ rằng nếu cứ như thế sẽ đâm ra dài dòng không đi vào chuyện chính được. Cung cách kể chuyện của ông ta thì ai cũng thấy rõ.

Worby vội trấn an Lake "Không phải vì thế mà tôi kéo dài đề tài này hàng giờ đâu, có nói được mới nói. Nhưng giáo sĩ Burscough, giáo sĩ trưởng của nhà thờ, rất ưa chuộng giai đoạn gô tích, mọi thứ phải làm sao phù hợp phong cách xây dựng ấy. Một sớm kia sau lễ sáng, ông bảo cha tôi chờ gặp ông nơi chỗ ngồi của ban đồng ca. Cất áo dài đi rồi ông tới, tay cầm một cuộn giấy, người coi kho nhà thờ đem đến một cái bàn, họ trải cuộn giấy ra, lấy mấy quyển kinh chặn lên, cha tôi giúp họ một tay và nhìn thấy hình vẽ quang cảnh một nơi cho dàn đồng ca ngồi trong một nhà thờ lớn. Tu sĩ trưởng nói – ông ta nói rất nhanh – "Đây, Worby, ông xem, cái gì đây này?"
"Dạ tôi quả chưa biết đây là đâu, có phải ở nhà thờ lớn Hereford không ạ?"
"Không, Worby, đó là nhà thờ Southminster tương lai."

thay đổi nội dung bởi: APOLONG, 31-03-2009 lúc 07:54 PM. Lý do: Gộp 2 bài gần nhau
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #20  
Cũ 31-03-2009, 07:40 PM
APOLONG's Avatar
APOLONG APOLONG is offline
Điều Hành Viên
 
Tham gia: 14/11/2008
Họ và tên: Apolong
Bài viết: 677
Xã: Tình khác
Gửi tin nhắn qua Yahoo chát tới APOLONG
Default Trả lời : [Truyện Ma Kinh Dị] - Giếng Thở Than - [+16]

"Thế ạ?" cha tôi chỉ nói có thế, còn dành lại cho tu sĩ trưởng nói nữa chứ. Tuy nhiên, cha tôi kể lại mình chỉ muốn xỉu đi khi nhìn xung quanh khu vực ghế ngồi của dàn đồng ca đang tồi tại - ấm cúng và thuận tiện biết bao – đối chiếu với các bức vẽ khô khan kinh tởm kia, mà theo lời ông là do một kiến trúc sư ở London vẽ. Đây, ông nhìn vào quang cảnh xưa cũ này xem lời tôi nói có đúng không."
Worby nhấc từ trên tường xuống một bản in có đóng khung. "Còn đây là cái thứ mà giáo sĩ trưởng nhà thờ đưa cho cha tôi. Bản sao lệnh dọn sạch khu chỗ ngồi hát của ban đồng ca đi –dọn sạch sẽ - để lấy chỗ xây dựng mới theo thiết kế ở trên tỉnh, tập hợp được bọn đến đập phá một cái là tiến hành ngay. Đây nhé, nhìn vào cảnh xưa cũ này ông thấy cái bục giảng kinh xưa đứng ở đâu, tôi muốn ông lưu ý cho."
Quả cũng dễ thấy, một cái bục bằng gỗ to bất thường , trên có vòm hướng âm, đứng ở cuối mạn Đông cái ghế ngồi và ở phía Bắc toàn khu đồng ca, ngay trước mặt cái ngai của giáo chủ. Worby giải thích rằng trong quá trình cải cách thì các cuộc hành lễ được tiến hành ngay ở gian lớn của nhà thờ, thành viên ban đồng ca bất mãn nên nghỉ hè, riêng người chơi đàn organ bị nghi cố tình làm hỏng cây đàn thuê tạm từ London với giá khá cao.
Việc phá hủy bắt đầu với vách ngăn khu đồng ca và nơi để chiếc đàn organ, tiến dần sang phía đông, làm lộ ra, theo Worby, nhiều nét đặc trưng rất hay ho của xây dựng cổ đại. Trong quá trình tiến hành, các thành viên của Tăng hội dĩ nhiên là ra vào khu vực này rất nhiều, thành thử ông Worby nghe được khối chuyện họ kháo nhau – đặc biệt giữa các giáo sĩ cấp cao, đa số rất không tán thành chính sách xây dựng lại như thể này. Một số cho rằng sẽ chết rét trong chỗ ngồi mới, bị gió từ gian lớn của nhà thờ lùa vào do không còn tấm chắn nữa, những người khác thì nói ngồi trong chỗ hát thánh ca mới chẳng khác gì phơi mặt cho mọi người từ hai cánh bên cửa nhà thờ nhìn vào, đặc biệt là khi giảng bài thuyết pháp, người nghe khó lòng tập trung vì ngồi trong tư thế không thoải mái. Tuy nhiên, phản đối mạnh nhất là từ vị giáo sĩ cao tuổi nhất, đến phút cuối cùng vẫn không đồng ý việc rời vị trí bục giảng đạo. « Ông không được động vào nó, thưa giáo sĩ trưởng », một buổi sáng, ông nói rất mạnh mẽ như vậy khi hai người đứng trước cái bục "ông không biết sẽ đưa đến tác hại như thế nào đâu." "Tác hại? Nó đâu phải là một công trình có giá trị đặc biệt gì, thưa giáo sĩ?" "Đừng gọi tôi là giáo sĩ," ông già cộc cằn đáp "từ ba mươi năm nay người ta biết đến tôi với tư cách là tiến sĩ Ayloff, nếu ông gọi tôi như vậy, tôi rất cám ơn. Còn về vấn đề cái bục giảng đạo này (chính tôi đã giảng đạo tại đây ba mươi năm, mặc dù tôi không muốn nhấn mạnh đến điều ấy), tất cả những gì tôi muốn nói chỉ là, tôi biết các anh đã sai khi **ng vào cái bục ấy!" "Nhưng thưa ngài tiến sĩ thân mến, cứ để nó đấy thì còn ra làm sao khi mà chúng ta thay đổi toàn bộ thiết kế khu vực này theo một phong cách khác hẳn? Còn vì lý do nào được nữa chứ - không lẽ nó ở đây trông hay hơn?" "Lý do! Lý do!" Ông già Aylogg nói "Nếu bọn trẻ tuổi các anh – tôi nói vậy không phải không thiếu kính trọng các anh, giáo sĩ


trưởng ạ - chỉ cần giữ theo lẽ phải một chút thôi và đừng hỏi lý do tại sao thì sẽ thông cảm với nhau hơn. Đó, tôi chỉ nói có thế thôi." rồi ông già quý tộc bỏ đi thẳng, và từ đó không bao giờ bước chân vào nhà thờ nữa. Lúc đó là mùa hè, trở mùa rất đột ngột, tiến sĩ Ayloff là người đầu tiên ra đi, các cơ ở họng ông có vấn đề làm ông không thở được vào ban đêm. Các thành viên tham gia ban đồng ca càng ngày càng ít dần qua từng buổi lễ.
Trong khi đó bục giảng đạo vẫn được dỡ đi. Thực tế cái màn hướng âm bằng gỗ (mà một phần của nó hiện nay được làm mặt bàn trong nhà nghỉ mùa hè ở ngoài vườn) được phá bỏ chỉ sau lúc tiến sĩ Ayloff phản đối độ một giờ. Phần chân của nó – gỡ bỏ khá khó khăn – bộc lộ ra trước mắt mọi người một ngôi mộ ngay cạnh bàn thờ, làm cho cả toán cải tạo hớn hở rối rít. Dĩ nhiên đây là ngôi mộ ông Worby đã lưu ý Lake hồi chiều tối. Tìm thế nào cũng không biết được người nằm dưới mộ là ai, suốt từ ngày đó đến nay. Công trình kiến trúc ngăn ô rất cẩn thận ngôi mộ đó ở bên dưới cái bục giảng đạo, vật trang trí sơ sài trên ngôi mộ vẫn được giữ nguyên, chỉ có mặt Bắc bị hư hại một ít, khiến cho có kẽ hở giữa hai phiến đá tạo thành mặt bên của ngôi mộ. Kẽ nứt đó rộng độ bảy, tám centimet. Ông thợ nề Palmer được chỉ định bịt nó lại trong thời gian một tuần, nhân thể ông này có vài việc vặt phải làm ở gần khu đồng ca.
Trời đất trong năm ấy hết sức khắc nghiệt. không biết có phải do nhà thờ xây trên một nơi nguyên thủy là bãi lầy hay không, hay tại sao không biết, dân sống quanh đó rất ít được hưởng nắng ấm mặt trời và những đêm êm ả của tháng tám và tháng chín. Đối với người già – ta đã biết như trường hợp của tiến sĩ Ayloff – mùa hè tự nhiên trở gió độc hại chết người. Ngay cả người trẻ cũng ốm liệt giường, nhiều tuần lễ hoặc it nhất có cảm giác khó thở và gặp nhiều cơn ác mộng. Dần dần ai nấy bán tín bán nghi, rằng chính sự thay đổi trong kiến trúc của nhà thờ gây ra tình trạng ấy. Vợ góa người trông coi giáo đường, là người được hưởng tiền trợ cấp của Tăng hội Southminster đêm đêm nằm mơ thấy – bà kể cho bạn nghe – một bóng người đi ra qua cửa ngách ở cánh ngang nhà thờ mỗi khi trời tối và sau đó di chuyển ra sân sau. Mỗi đêm lại theo một hướng mới, lúc gần sáng thì thoắt ẩn thoắt hiện từ nhà này sang nhà khác. Bà ta nói không nhìn rõ gì cả chỉ thấy hình bóng di động và bà có cảm giác khi trở lại nhà thờ mỗi đêm, tức là vào cuối giấc mơ – cái bóng đó quay đầu lại và có hai con mắt đỏ rực. Worby nhớ là nghe bà ta kể về giấc mơ của mình tại một bữa trà ở nhà ông tu sĩ của Tăng hội. Giấc mơ tái diễn theo ông báo hiệu một trận ốm sắp bắt đầu. Quả nhiên cuối tháng Chín bà ta qua đời.


Mối quan ngại gây ra bởi việc trùng tu ngôi nhà thờ lớn không chỉ hạn chế trong phạm vi vùng này. Một ngày hè năm ấy, một nhân vật tiếng tăm vốn là hội viên hội sưu tầm đồ cổ đến thăm nhà thờ, mục đích để viết một bài tường thuật về những khám phá ở nơi này cho hội của ông, có bà vợ đi cùng, vẽ cho ông các bản minh hoạ hay viết báo cáo. Buổi sáng bà ngồi vẽ sơ đồ chung của khu đồng ca, đến chiều thì đi vào chi tiết. Bà vẽ trước tiên ngôi mộ ngay dưới bàn thờ mới được bộc lộ ra, khi vẽ xong thì bà gọi ông chồng lại để xem một mảng trang trí hình thoi rất đẹp ở trên tấm chắn đàng sau ngôi mộ, mà cũng giống như bản thân ngôi mộ, nó hoàn toàn bị bục giảng đạo che khuất. Ông chồng nói dĩ nhiên phải vẽ nó. Bà vợ bèn ngồi trên nấm mộ và chăm chú vẽ cho đến khi tối mịt mới thôi.
Chồng bà lúc này đã mô tả và đo đạc xong, họ về khách sạn. Bà bảo chồng "Anh chải hộ em chiếc váy, Frank, hẳn nó đầy bụi". Ông vâng lời nhưng bảo "Sao em đánh giá cao chiếc váy này thế chứ, nay cũ quá rồi, mất hẳn một mảnh ở đàng sau." "Mất một mảng? Ở đâu vậy?" "Ngay bên cạnh, dưới gấu ấy, chẳng hiểu nó đi đâu?" Bà vợ liền giơ cái váy lên xem, quả nhiên có vết xé rách vải hình răng cưa giống như bị chó cắn. Bộ váy áo thế là hỏng hẳn, bà lấy làm lạ vô cùng, họ tìm khắp nơi không thấy miếng rách nằm ở chỗ nào cả. Họ kết luận có lẽ chỗ ngồi hát đồng ca đó toàn mảnh gỗ vụn có đinh, đã gây nên vết rách, rồi một người thợ mộc dọn gỗ vụn đi, gỗ có đính miếng vải rách vào đó.

Cũng khoảng thời gian này, Worby nghĩ, con chó của ông bắt đầu lộ vẻ lo âu khác thường mỗi khi đến giờ đưa nó ra căn lều phía sau, (vì là mẹ ông không cho nó ngủ trong nhà). Ông ta kể "Một buổi tối, tôi vừa định đưa nó đi thì nó nhìn tôi với cái nhìn "của một người Cơ đốc giáo và vẫy vẫy hai chân trước" – ông cũng biết đôi khi chúng biết vậy có ý nghĩa gì – thế là tôi giấu nó dưới áo khóac rồi lên gác, đánh lừa mẹ tôi. Con chó ẩn mình rất nghệ thuật trên giường ngủ của tôi độ nửa giờ trước giờ đi ngủ. Mẹ tôi không biết gì hết." Dĩ nhiên Worby rất mừng vì có người bạn đồng hành này, đặc biệt từ khi nhớ lại xảy ra chuyện phiền toái ở Southminster mà người ta vẫn gọi là "tiếng kêu".


"Đêm này qua đêm khác" Worby kể "con chó hình như cảm thấy chuyện sắp xảy ra. Nó bò ra khỏi gậm giường rúc vào giường tôi, cuộn tròn lại trong lòng tôi và run rẩy. Khi tiếng kêu phát ra nó như hóa điên, cứ rúc đầu vào cánh tay tôi hoài, làm tôi cũng gần hóa điên theo. Chúng tôi nghe thấy như vậy độ sáu bảy lần. Khi đầu nó không còn cọ vào tay tôi nữa, tôi biết đêm đó tiếng kêu sẽ chấm dứt. Tiếng kêu như thế nào nhỉ? Có một lần tôi nghe thấy có người nói về đúng tiếng kêu ấy. Lúc ấy tôi đang chơi ở sân trong của nhà thờ, có hai vị giáo sĩ chào nhau buổi sáng. "Đêm qua anh ngủ ngon không?" một người, ông Henslow hỏi thế. Ông kia, Lyall trả lời "Không thể bảo là ngủ ngon được. Chẳng khác gì Isatah XXXIV 14 vậy!" Ông Henslow hỏi "XXXIV 14 là cái gì vậy?" "Thế mà anh tự coi mình là người đã đọc Kinh thánh!" Ông Lyall trả lời. (Ông Henslow là người thuộc nhóm Simeon – chúng ta gọi là trường phái Phúc âm), anh đi mà xem" Tôi muốn biết bèn chạy về nhà mở quyển Kinh Thánh của mình và tìm đoạn đó là "Tên cuồng dâm gọi đồng bọn." Thế là tôi nghĩ, phải chăng họ nói đến cái tiếng kêu mình nghe thấy những đêm vừa qua? Phải nói với ông, nhiều lần tôi giật mình nhìn qua vai ra đằng sau. Tôi có hỏi cha mẹ tôi về cái tiếng kêu ấy, họ bảo có vẻ như tiếng mèo kêu. Họ trả lời gọn một tiếng và rõ ràng lúng túng. Lạy Trời! Cái tiếng kêu như của người đói, tiếng kêu gọi ai đó không bao giờ đến cả. Nếu có lúc nào ta muốn có người ở cùng thì chính là lúc ta chờ đợi cái tiếng kêu đó bắt đầu cất lên. Hai, ba đêm liền có nhiều người đàn ông được cử lùng sục khắp sân trong của nhà thờ, thực tế họ túm tụm lại một góc gần High Street, và không thấy gì cả."
"Tiếp theo đó là chuyện sau đây. Tôi cùng một thằng bạn - bây giờ nó bán tạp hóa trên thị trấn giống bố nó ngày xưa – đi lên khu đồng ca sau lễ táng. Nghe thấy ông Palmer đang rống lên với thợ, chúng tôi vội tới gần. Ông này là người thô thiển, chúng tôi nghĩ thế nào cũng được nghe chuyện gì vui vui đây. Hóa ra ông ta đang bảo một người thôi đi và đừng có vá cái kẽ hở ở ngôi mộ nữa."
Người này luôn miệng nói là đã cố gắng làm hết sức mình trong khi ông Palmer vẫn cứ sôi nổi kêu la "Thế mà gọi là làm hả? Anh đáng bị đuổi về việc này! Tôi trả tiền cho anh để anh làm thế hả? Tôi sẽ nói với tu viện trưởng và Tăng hội như thế nào khi họ đến đây, họ vẫn thường hay đến đây lắm, thấy anh làm ăn vụng về cẩu thả, bít cái lỗ ấy cũng không xong, lem nhem cả vữa ra thế kia, và có Chúa biết, trông chẳng ra làm sao thế kia?" "Thưa ông chủ, tôi đã cố gắng nhất có thể, nhưng nhét vữa vào cái lỗ đến đâu thì nó lại rơi ra đến đấy, đây, nó lại rơi ra rồi đây này, tôi chưa thấy như thế này bao giờ" người thợ nói.


"Rơi ra?" ông già Palmer nói "Đâu nào, ngay tại chỗ có thấy đâu? Bị gió thổi đi mất à? Anh định nói thế chứ gì?" vừa nói ông ta vừa cầm một mảng vữa lên, tôi cũng cầm một mảng ở ngay chân vách ngăn cách đó độ một mét. Vữa vẫn còn chưa khô. Ông già cứ nhìn đăm đăm vào đó với vẻ tò mò, rồi ông ta quay về phía tôi bảo "Này bọn trẻ con, chúng mày chơi cái gì ở đây thế hả? Vẫn chơi ở đây từ nãy hả?" Tôi đáp "Dạ không ạ. Từ nãy đến giờ không có đứa nào, bây giờ mới có hai đứa cháu thôi ạ." Trong khi tôi nói thế thì thằng Evans nhìn vào trong khe nứt. Tôi thấy nó nín thở quay lên nhìn chúng tôi nói "Cháu thấy có cái gì ở trong đó ấy, nó sáng lóng lánh" Ông già Palmer bèn bảo "Làm gì có! Tao dám chắc thế" rồi sau đó kêu lên "William, tôi không thể đứng lâu ở đây được, anh đi lấy thêm vữa trát vào đây đi, lần này mà không được thì không xong với tôi đâu."
"Thế là người thợ đi, cả Palmer nữa. Hai đứa tôi đứng lui ra sau. Tôi hỏi Evans "Mày nhìn thấy cái gì trong đấy thật à?" "Thật, tao nhìn thấy thật" nó bảo. Tôi bèn nói "Mình lấy cái gì ngoáy vào đó xem sao." Chúng tôi thử tìm mấy mảnh gỗ quanh đó, nhưng chúng đều quá to không thọc vào được. Thằng Evans có một trang nhạc đem theo, một bài Thánh ca hay hát lễ gì đó, nó bèn cuộn lại, cho vào trong khe, ngoáy mấy lần chẳng ăn thua gì. "Mày đưa tao thử nào" tôi bảo nó. Quả không thấy gì hết. Rồi không hiểu vì sao, tôi cúi xuống phía đối diện cái khe, cho hai ngón tay vào miệng huýt sáo lên – ông hiểu cách huýt sáo ấy chứ - thế là lập tức nghe có tiếng động đậy trong đó. Tôi bảo Evans "Tao với mày ra chỗ khác đi, tao không thích tí nào." "Ồ, không được, đưa cuộn giấy đây." nó lại ngoáy vào trong. Tôi chưa thấy mặt ai xanh lướt như nó lúc ấy. "Này Worby ạ, có ai nắm lấy đầu kia cuộn giấy". "Kéo ra, nếu không thì mày bỏ tay ra, bỏ cuộn giấy lại, ta đi thôi." Nó cố kéo mạnh một phát, gần đứt cuộn giấy, tuy lôi ra được phần lớn, nhưng phần đuôi rách vẫn còn dính lại ở trong. Nó kêu lên một tiếng, nhìn vào chỗ cuộn giấy bị rách, sau đó buông tay ra cho rơi cả vào trong. Chúng tôi chuồn cho nhanh. Ra ngoài, thằng Evans bảo "Mày có nhìn đuôi cuộn giấy không?" "Có, rách chứ gì?" "Đúng, nhưng rách, lại ướt và lại đen nữa." Một phần vì quá sợ, một phần vì trang nhạc đó cần cho hai ba ngày sau, lại phải trình bày với người chơi đàn organ nữa,


chúng tôi im thin thít chẳng nói với ai, nghĩ rằng rồi người ta sẽ dọn dẹp mảnh giấy cùng các rác rưởi vặt vãnh. Riêng Evans, giá như ông hỏi nó ngày hôm ấy về cuộn giấy, thì nó cứ khăng khăng "Chỗ đuôi rách bị đen và ướt."
Từ hôm đó, cả hai đứa trẻ tránh xa khu ngồi của dàn đồng ca. Worby không hiểu sự thể việc hàn cái khe hở của nấm mộ tiến triển đến đâu, chỉ nghe lõm bõm thợ nề nói rằng họ gặp rất nhiều khó khăn trong việc này, sau đó phải đến chính tay ông Palmer nhúng tay vào. Worby nhìn thấy ông Palmer gõ cửa nhà ông giáo sĩ trưởng nhà thờ và được ông quản gia cho vào. Khoảng một ngày sau đó, cha của Worby trong bữa điểm tâm để lộ ra là sau lễ sáng ngày mai sẽ có một việc không mấy bình thường trong nhà thờ. Ông còn nói thêm "Tôi cho là chẳng nên mạo hiểm làm gì." "Cha ơi, ngày mai cha làm gì ở nhà thờ ạ?" Cha tôi quay lại tôi, vẻ hung dữ mà tôi chưa thấy bao giờ - Vì xưa nay người cha tội nghiệp của tôi tính tình rất hiền hoà – "Con, cha không đồng ý con cứ nghe lỏm chuyện người lớn, như vậy không được. Cha làm gì ở nhà thờ ngày mai không phải việc của con, cha mà trông thấy con láng cháng ở đó ngày mai sau khi hát xong, thì cha sẽ tạt tai con mà tống con về nhà đấy!" Dĩ nhiên tôi xin lỗi ông, nhưng lại đi tìm Evans bàn định kế hoạch. Tôi biết trong ngách ngang của nhà thờ có một cái cầu thang đi lên hành lang gác có chấn song ở phía trong. Ban ngày, cánh cửa đi vào đó lúc nào cũng để ngỏ, giả sử cửa đóng chúng tôi cũng biết chìa khoá cửa thường để dưới cái thảm chùi chân. chúng tôi quyết định ngày mai sau phần nhạc hát, bọn trẻ hát thánh ca về hết, chúng tôi sẽ lẻn theo cầu thang lên chỗ hàng lang phía trong đó mà nhìn xuống xem họ tiến hành công việc gì.
"Đêm đó tôi ngủ rất say, giấc ngủ của con trẻ ấy mà. Bỗng nhiên đang ngủ thì con chó mò vào giường tôi đánh thức tôi dậy, tôi nghĩ lại có vấn đề gì đây vì trông nó hoảng sợ hơn tất cả mọi lần khác. Năm phút sau thì tiếng kêu xuất hiện. Tôi không thể diễn tả cho ông là nó như thế nào. Nó ở rất gần – gần hơn mọi khi – và ông Lake ạ, có điều lạ là cái sân trong nhà thờ ấy, nếu ta đứng ở phía trên bao giờ tiếng dội lại cũng rằng rõ. Ấy thế mà cái tiếng kêu ấy không có tiếng vang mới quái chứ. Nhưng, như tôi đã nói, tiếng kêu đêm nay ở gần và đáng sợ vô cùng, tôi nghe thấy mà giật mình hoảng hốt, bởi vì còn có tiếng sột soạt ở ngoài hành lang nữa. Tôi rã rời tưởng mình nguy tới nơi, nhưng lại thấy con chó có vẻ tươi tỉnh lên một chút, sau đó có tiếng thì thào ngay ngoài cửa, suýt nữa tôi phì cười, bởi vì chính là cha mẹ tôi chạy ra vì tiếng động lạ. Tiếng gì thế nhỉ? Mẹ tôi hỏi "Suỵt! Tôi cũng không biết" giọng cha tôi kích động, "nhưng đừng làm thằng bé thức dậy. Hy vọng nó không nghe thấy gì"
"Thấy hai ông bà ở ngoài, tôi mạnh dạn lên, chui ra khỏi giường tới bên cửa sổ nhỏ - trông ra sân trong của nhà thờ - con chó đã chui xuống cuối giường- và nhìn ra. Lúc đầu tôi không thấy gì hết. Rồi, ngay dưới bóng một cái bức tường, tôi trông thấy hai chấm đỏ - cái màu đỏ mới thê thảm làm sao – không giống ngọn đèn hay ngọn lửa, mà chỉ vì nó ở trong màn đen mà ta mới phân biết được. Vừa nhìn thấy thế thì tôi nhận ra không chỉ có gia đình tôi bị khuấy đảo, cửa sổ nhà bên trái tôi cũng bật sáng lên và ánh đèn bên ấy di động. Tôi quay nhìn cửa sổ nhà bên cạnh xong thì nhìn lại không thấy hai chấm đỏ đâu nữa. Nhìn đi nhìn lại cũng đã mất hút. Lại thêm nỗi sợ cuối cùng: hai chân trần của tôi bị cái gì cọ vào không biết. Hoá ra con chó đã chui ra, nhảy nhót lung tung, may nó biết giữ miệng, nhìn thấy nó tinh thần của tôi vững lên đôi chút, tôi mang nó vào giường và cả hai ngủ thiếp đi."
"Sáng hôm sau tôi thú thật với mẹ là đã để con chó ngủ trong phòng, và ngạc nhiên thấy bà bình thản "Vậy ư?" Bà nói "vậy con không được ăn sáng vì đã làm một việc giấu giếm mẹ, tuy nhiên cũng không gây nguy hiểm lớn lao gì, có điều lần sau con phải xin phép mẹ, nghe chưa?" Một lát sau tôi bảo cha tôi là tôi lại nghe tiếng mèo kêu. "Mèo?" ông nói và nhìn bà mẹ tội nghiệp của tôi, mẹ tôi ho lên bảo "Ồ!À ! Ừ mèo! Phải rồi, tôi cũng nghe thấy.


"Sáng hôm đó thật khôi hài, mọi sự chẳng đâu vào với đâu. Người chơi đàn organ ốm nằm nhà, vị tu sĩ cấp thấp quên mất đó là ngày thứ mười chín và cứ chờ bài Venite, ông tu sĩ phó đành chơi bài lễ chiều quãng thứ. Anh em nhà Decani cười đến nỗi không hát được, nhất là khi trong đoạn thánh ca solo thì thằng bé lĩnh xướng cứ khúc khích hoài đổ cả máu cam, nó chỉ vào sách nhạc cho tôi thấy đã được tập lời đâu, mà tôi có phải là ca sĩ gì cho cam mà biết! Đấy ông xem, sự việc càng bão tố, năm mươi năm rồi mà tôi còn nhớ lại đã bị cái tay hát giọng nam cao đẳng ấy nó véo cho một cái."

"Tuy nhiên chúng tôi cũng xong bài thánh ca ấy. Cả người lớn lẫn trẻ con không ai chờ xem vị giáo sĩ thường trực – tức ông Henslow – có đến phòng họp để phạt họ không, tôi không tin ông đến, bởi tôi nghĩ nếu như vậy ông sẽ làm một chuyện sai trái đầu tiên trong đời, và ông cũng biết thế. Dù thế nào thì thế, tôi và Evans chui lên hành lang gác phía trong, qua cầu thang không khó khăn gì mấy, chúng tôi nằm ép bụng xuống sàn, thò đầu nhìn xuống đúng chỗ ngôi mộ cổ. Vừa yên vị xong thì nghe tiếng ông coi giáo đường thời ấy đóng cổng sắt, khoá cánh cửa phía Tây Nam, cả cửa cánh ngang nhà thờ nữa, thế là chúng tôi biết họ sắp làm một việc gì đây cho nên mới tạm thời không cho ai vào trong nhà thờ."

"Sau đó, giáo sĩ trưởng cùng giáo sĩ nhà thờ từ cửa phía Bắc đi vào, tôi trông thấy cha tôi và ông già Palmer, cùng một vài người thợ khá nhất của ông. Ông Palmer đứng nói chuyện với giáo sĩ trưởng ở giữa khu đồng ca. Ông ta cầm một đoạn dây thừng, mấy người thợ kia mang theo xà beng. Trông ai nấy đều có vẻ bồn chồn. Đứng nói chuyện với ông, Giáo sĩ trưởng bảo "Được rồi, ông Palmer ạ, ta đừng mất thời gian làm gì, tôi nghĩ việc này thuận lòng với Southminster thôi, tôi cho phép, tuy nhiên, phải nói thật điều này, suốt đời tôi, tôi không muốn nghe bất cứ lời bàn ra tán vào ngở ngẩn nào từ một con người thực bụng như ông. Ông có đồng ý như vậy không, ông Henslow?" Tôi nhớ mang máng ông Henslow nói điều gì đó như là "Ồ, thưa giáo sĩ trưởng, chúng ta chẳng được dạy không phán xét người khác là gì?" Giáo sĩ trưởng khụt khịt, đi thẳng đến phía sau ngôi mộ, đứng quay lưng về phía tấm chắn, những người khác như được tiếp thêm dũng khí đứng dịch gần vào. Henslow đứng ở phía Nam, gãi cằm. Rồi giáo sĩ trưởng nhà thờ lên tiếng "Palmer, theo ông làm thế nào dễ nhất? Nhấc phiến đá thẳng từ dưới lên hay nhắc một phiến đá bên cạnh ra trước đã?"
Ông già Palmer và thợ của ông nhìn kỹ phiến đá cuối cùng, sau đó thăm dò phiến đá từ phía Nam, Đông Tây, trừ phía Bắc. Henslow nói đại ý nên thử từ phía Nam có ánh sáng lại rộng chỗ hơn. Rồi cha tôi, vẫn đứng nghe họ nãy giờ, vòng ra phía Bắc, quỳ xuống sờ vào phiến đá qua kẽ hở, ông đứng dậy phủi bụi đầu gối rồi nói với giáo sĩ trưởng "Xin lỗi giáo sĩ trưởng, tôi nghĩ nếu ông Palmer lật phiến đá từ phía này lên sẽ dễ hơn. Tôi cho là người nào đó nên lấy xà beng luồn vào cái khe này rồi bẩy lên là xong." "A, cám ơn ông, Worby." Giáo sĩ trưởng nói "Đề nghị hay đấy! Palmer, cho một người thực hiện đi!"


"Thế là một người thợ đi tới, luồn thanh sắt vào cái khe, lúc này tất cả mọi cái đầu đều cúi nhìn kể cả lũ chúng tôi (thò qua chấn song của hành lang phía trong). Tự nhiên, một tiếng ầm khủng khiếp ở cuối khu đồng ca về mạn Tây, cứ như thể đổ sập cả một nhịp cầu thang gỗ vậy. Trời ơi, không tả nổi tình trạng như thế nào vào giây phút ấy. Náo loạn cả lên. Tôi nghe tiếng phiến đá rơi ùm xuống còn thanh xà beng lăn ra sàn và tiếng ông giáo sĩ trưởng "Trời ơi!"
"Nhìn lại lần nữa tôi thấy giáo sĩ trưởng ngã nhào xuống đất, thợ chạy khỏi khu đồng ca, Henslow thì đang đỡ giáo sĩ trưởng lên, Palmer chặn thợ lại (sau này theo lời ông ta kể), cha tôi ngồi trên bậc tam cấp ở chỗ bàn thờ hai tay ôm mặt. Giáo sĩ trưởng giận dữ nói "Henslow, ông phải biết ông chạy đi đâu chứ? Tại sao mọi người chạy hết cả khi một cây gỗ đổ ụp xuống thế này, tôi không tưởng tượng nổi." Henslow giải thích ông ta đang đi sang phía kia của ngôi mộ chứ có đi đâu đâu, giải thích ấy không làm giáo sĩ trưởng hài lòng.
"Rồi ông Palmer trở lại báo cáo là không có cái gì rơi xuống cả, không hiểu vì sao lại có tiếng động ấy. Giáo sĩ trưởng hoàn hồn, mọi người tập trung cả lại trừ cha tôi, ông ngồi đâu vẫn ngồi đấy, có ai đó thắp một cây nến lên, họ nhìn cả vào trong ngôi mộ. "Chẳng có gì cả" giáo sĩ trưởng nói. "Cái gì thế này? Một mẩu trang nhạc, một mảnh vải bị xé rách từ một cái váy dài thì phải. Mà cả hai đều còn mới – ngoài ra chẳng có gì đáng chú ý. Có lẽ để lúc khác các ông sẽ xin ý kiến của một người có học xem sao…"Ông ta nói đại quá như vậy rồi bỏ đi, chân hơi khập khiễng, đi ra cửa phía Bắc, tuy nhiên quay lại quát Palmer vì sao để ngỏ cửa. Palmer nói vọng ra "Xin lỗi, thưa ông" nhưng ông ta nhún vai, còn Henslow thì nói "Tôi nghĩ giáo sĩ trưởng nhầm. Chính tay tôi đóng cửa lại sau lưng mình mà. Ông ta quá hoang mang đấy thôi." Rồi Palmer hỏi "Worby đâu?" Họ thấy ông ngồi trên bậc tam cấp của bàn thờ và tới gần ông. Xem ra hình như ông đã hồi phục tinh thần, ông lau trán, Palmer đỡ ông đứng dậy, tôi cũng mừng.
"Họ ở cách xa tôi quá nên tôi nghe không rõ lắm nhưng cha tôi chỉ vào cánh cửa phía Bắc của cánh bên nhà thờ, cả Palmer lẫn Henslow đều nhìn theo lộ vẻ ngạc nhiên và sợ hãi. Sau đó một chút xíu thì cha tôi và ông Henslow đi ra khỏi nhà thờ, những người kia vội vội vàng vàng đặt phiến đá vào chỗ cũ và lấy vữa bít lại. Chuông đồng hồ điểm mười hai giờ trưa thì cửa nhà thờ lớn lại được mở ra, bọn hai đứa chúng tôi thênh thang về nhà.
"Tôi rất băn khoăn đến những cái gì đã chơi người cha tội nghiệp của tôi cái vố ấy. Tôi vào nhà thì ông đang ngồi trong ghế bành, tay cầm ly rượu, mẹ tôi đứng nhìn ông lo lắng, tôi không đừng được bèn ra thú nhận mình đã ở đâu sáng nay. Nhưng cha tôi không hề có vẻ bực mình chút nào. "Con ở đó hả con? Vậy con nhìn thấy cả chứ?" "Vâng, con nhìn thấy hết cha ạ. Chỉ riêng lúc phát ra tiếng nổ làm con không trông thấy gì thôi." "Thế con có trông thấy giáo sĩ trưởng nhà thờ bị cái cú đo ván ấy không?" ông hỏi "Và trông thấy cái gì từ ngôi mộ đi ra không? Không ư? Thật là nhờ Trời!" "Tại sao lại vậy hả cha?" Tôi hỏi và ông nói "Này nhé, lẽ ra con phải trông thấy chứ? Thế nhưng con lại không trông thấy à? Một vật. Cứ như là một người ấy. Lông tóc khắp người, Hai mắt đỏ lòm."


"Đó, lần đó tôi chỉ moi được từ cha tôi có thế thôi. Về sau ông có vẻ ngượng vì đã sợ hãi như vậy, thành ra tôi có hỏi gì thêm ông đều gạt đi. Nhưng mãi nhiều năm về sau khi tôi đã trưởng thành, chúng tôi nói với nhau nhiều hơn về chuyện này, và ông vẫn cứ luôn luôn nhắc lại như thế. "Đen kịt" ông nói "toàn lông với tóc, với hai cẳng chân, ánh sáng rọi vào mắt nó."
Đó là câu chuyện về nấm mộ ấy, thưa ông Lake, nhưng tôi chẳng bao giờ kể cho khách tới thăm và tôi cũng đề nghị ông đừng có tận dụng nó mà đưa ra, tôi qua đời rồi hẵng hay, cảm ơn ông, Evans cũng vậy, ông có hỏi hắn thì hắn cũng bảo thế."
Sự tình như vậy. Đã hai mươi năm trôi qua, cỏ đã mọc dầy trên mộ ông Worby cũng như mộ ông Evans, ông Lake mới thông báo câu chuyện mà ông ghi chép – vào năm 1890 – cho tôi. Kèm theo còn có cả sơ đồ ngôi mộ và dòng chữ ngắn sao lại từ cây thập tự bằng kim loại mà tiến sĩ Lyalll đã mất tiền cho gắn vào giữa ngôi mộ ở phía Bắc, câu này trích từ Vulgate of Isaiah XXXIV chỉ vẻn vẹn gồm ba chữ:
IBI CUBAVIT LAMIA – QUỶ ĐÃ NĂM Ở NƠI ĐÓ



+++++++++++++++++++++++++



Chương XIX

Những lá thư mà tôi in ra đây được một người gửi cho tôi vì biết tôi quan tâm đến chuyện ma. Đây là chuyện có thật. Giấy, mực, hình thức chúng chứng tỏ chuyện xảy ra vào lúc nào là vấn đề không cần bàn cãi.
Duy có một điểm không biết người viết là ai. Ông ta chỉ ký hai chữ đầu tên họ. Phong bì gửi thư không được giữ lại, thành ra họ của người nhận thư – rõ ràng là một người Anh đã có gia đình – cũng mờ mịt như họ người viết thư vậy. Tôi nghĩ chẳng cần giải thích gì thêm. May mắn là những lá thư đầu tiên cung cấp mọi điều ta mong đợi.
Thư thứ nhất .
Great Chrishall 22, tháng 12 1937
Anh Robert thân mến! Thật tiếc cho dịp vui mà em sắp bỏ qua, lý do hẳn anh cũng sẽ phải lấy làm đáng tiếc cho em. Em không thể đến chỗ anh để mừng Giáng sinh được, không thể làm khác vì cách đây mấy Giờ em có nhận được thư bà Hunt ở bà già – nói là chú Henry của chúng ta bị mất tích một cách bí ẩn, và bà đề nghị em xuống đó tham gia vào cuộc tìm kiếm. Em nghĩ, xưa nay em và cả anh nữa, đều ít gặp chú, yêu cầu này không thể coi nhẹ được. Em định đi bằng xe thư chiều nay, tối thì đến đó và sẽ không tới nhà mục sư đâu mà ở khách sạn King s Head. Anh có thể gửi thư tới nơi. Em gửi kèm theo đây một thương phiếu nhỏ anh dùng cho bọn trẻ. Em sẽ viết cho anh mỗi ngày (hy vọng không ngay nào em bị ngăn trở) kể cho anh nghe tình hình đến đâu, hãy tin chắc nếu việc giải quyết xong mà kịp về dự Giáng sinh thì em sẽ đến thái ấp. Em chỉ còn vài phút. Chúc mừng cả nhà. Em rất tiếc, xin hãy tin như vậy.
Em thân mến của anh,
W.R.



Thư thứ hai
Kíng s Head, 23 tháng 12 1937.
Anh Robert thân mến! Trước hết, không có tin tức gì về chú Henry cả, anh không nên hy vọng em về dự lễ Giáng sinh được. Tuy nhiên, ý nghĩ của em lúc nào cũng ở bên anh, chúc anh những điều tốt đẹp nhất nhân ngày lễ. Anh hãy lưu ý đừng để các cháu mất một xu nào trong việc mua quà cho em đấy nhé.
Từ khi đến đây em mới nhận ra mình đã coi nhẹ việc đã xảy ra với chú. Qua lời mọi người thì rất ít hy vọng chú còn sống, tuy nhiên khó xét được do tai nạn hay do ý đồ gì mà chú bị mang đi. Sự việc như sau. Năm giờ chiều thứ sáu ngày 19, chú đi nhà thờ đọc kinh buổi chiều, kinh ngắn như mọi ngày, xong thì thư ký đưa tin đến. Có người ốm yêu cầu chú đến thăm tại một túp nhà tranh cách đó hai dặm. Chú thăm xong đến sáu giờ rưỡi thì ra về. Em chỉ biết đến đấy. Người địa phương rất tiếc nhớ chú, chú ở đây đã nhiều năm như anh biết, và tuy rằng, anh cũng đã biết, chú chẳng phải người ôn hoà vui tính cho lắm, nhưng rất tích cực làm việc thiện, sẵn sàng chịu vất vả mất thì giờ.
Bà Hunt tội nghiệp là người coi sóc việc nhà cho chú từ khi rời Woodley, bà hầu như suy sụp. Như thể đối với bà cả thế giới không còn. Em mừng không ở tại nhà mục sư, ở ngoài được tự do hơn, em ở đây rất thuận tiện.
Nếu anh muốn biết mọi người điều tra và tìm kiếm ra sao. Trước hết việc điều tra tại nhà mục sư không lộ ra được điều gì. Em đã hỏi bà Hunt – cũng như nhiều người khác – xem ông chủ của bà có triệu chứng gì khác lạ như bị đau ốm bất ngờ, đột quỵ, hoặc ông chợt vô tình biết một chuyện gì đó. Nhưng cả bà lẫn bác sĩ đều khẳng định là không. Sức khoẻ của chú hoàn toàn bình thường. Rồi đến việc thứ hai, các ao hồ đều bị tát sạch, cánh đồng khắp vùng được lùng sục, không đi đến kết quả gì. Bản thân em cũng nói chuyện với các tu sĩ của giáo khu, quan trọng hơn, em cũng đến thăm ngôi nhà mà chú đã đến thăm người ốm.
Gia đình này chẳng có lý do gì chơi khăm chú như thế. Người ốm nằm trong giường bệnh khá nặng. Vợ của ông ta dĩ nhiên không thể làm gì được! Cũng không có gì có vẻ họ giương bẫy để chú bị tấn công trên đường về. Họ đã trả lời rằng nhiều câu hỏi trong cuộc điều tra, nay họ lại kể lại: mục sư trông vẫn bình thường như mọi khi, ông ngồi với người ốm không lâu. "Ông không có biệt tài trong cầu kinh, nhưng nếu cứ theo cách này thì người nhà thờ sống bằng cách nào?" Ông để lại một ít tiền. Một đứa trẻ trông thấy ông trèo sang cánh đồng bên kia. Ông vẫn mặc bình thường – có đeo cổ áo giả của thầy tu – có lẽ bây giờ chỉ còn ông mặc thứ đó.
Vậy là em đã trình bày mọi thứ rồi đấy. Thực tế thì không biết phải làm gì hơn, em không đem theo tài liệu làm việc, nhờ vậy mà có điều kiện thanh thảnh đầu óc để nhận định rõ mọi điều, có thể có những điều người ta bỏ qua. Em tiếp tục viết về mọi diễn biến, kể cả thuật lại những cuộc nói chuyện nếu cần – anh đọc hay không là tùy thích. Tuy nhiên, mong anh hãy giữ những lá thư này lại. Em có lý do tường thuật tỉ mỉ đấy, tuy nó chưa thành hình cụ thể.

thay đổi nội dung bởi: APOLONG, 31-03-2009 lúc 07:55 PM. Lý do: Gộp 2 bài gần nhau
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #21  
Cũ 31-03-2009, 07:46 PM
APOLONG's Avatar
APOLONG APOLONG is offline
Điều Hành Viên
 
Tham gia: 14/11/2008
Họ và tên: Apolong
Bài viết: 677
Xã: Tình khác
Gửi tin nhắn qua Yahoo chát tới APOLONG
Default Trả lời : [Truyện Ma Kinh Dị] - Giếng Thở Than - [+16]

Anh có thể hỏi "Em có tìm kiếm kỹ các cánh đồng quanh khu nhà tranh không?" Người ta đã làm việc này cả rồi nhưng mai em sẽ đến khu đất ấy. Bow Street đã được thông báo rồi và sẽ cử người xuống vào chuyến xe tối nay. Chắc gì họ đã làm được việc! Nếu có tuyết thì đã tiện việc hơn nhiều. Dĩ nhiên hôm nay em đã qui vive – cảnh giác – mọi dấu hiệu. Lúc về sương mù dày đặc quá, em đâu có sung được mà lang thang trên những đồng cỏ không quen biết, nhất là vào buổi tối, các bụi cây trông như người, một con bò rống lên ở xa xa lại tưởng như tiếng kèn báo hiệu ngày tận thế. Bảo đảm với anh, giả sử chú Henry từ một bụi cây giữa đường bước ra, tay cắp cái đầu lâu của mình, em cũng không có cảm giác nôn nao hơn lúc này. Nói thực, em thà chờ đợi một sự việc như thế còn hơn. Nhưng em phải đặt bút xuống đây, ông Lucas, cha phó phụ trách nhà thờ, đến thăm.
Sau đó: ông Lucas đến rồi đi, cũng chẳng có gì ngoài những lễ nghi xã giao thông thường. Em nhìn rõ ông không còn mong gì là mục sư còn sống, ông rất thông cảm. Em cũng nhận thức rõ, ngay cả đối với một người dễ xúc động hơn ông Lucas, hẳn chú Henry cũng khó có khả gây ra được tình cảm quyến luyến.
Ngoài ông Lucas còn có một người nữa tới thăm dưới bộ dạng của một con người ngây ngô – ông chủ King s Head – xem em có thiếu thức gì không. Lúc đầu ông ta có vẻ trịnh trọng và cân nhắc "Thưa ông, tôi nghĩ chúng ta đành cúi đầu trước đau thương giáng xuống, như người vợ tội nghiệp của tôi thường nói. Theo như tôi biết, cho đến giờ chưa tìm ra dấu vết nào của vị giữ thánh chức đáng kính của chúng ta cả, ông ta cũng chẳng phải như trong Kinh thánh mô tả là một con người tính tình khó chịu với đầy đủ ý nghĩa của nó."
Em nói – rất khéo – rằng em cho là không, nhưng không đừng được, phải nói thêm rằng, em nghe nói đôi khi giao thiệp với ông ấy cũng khó chịu chứ không phải không đâu. Ông Bowman bèn liếc em một cái rất nhanh, chỉ một thoáng lại chuyển từ cảm thông trang trọng sang diễn thuyết hùng hồn rất kích động. "Khi tôi nghĩ đến cái từ ông ấy dùng với tôi ngay ở phòng khách này, lúc mà uống chưa đến một thùng bia – điều mà tôi bảo ông ta thì ngày nào trong tuần chả có thể xảy ra cho một người có gia đình – thì rõ là ông ấy đã làm một điều sai trái và tôi đã biết ngay lúc đó, chỉ có điều tôi bị sốc khi nghe ông ta đến nỗi không giữ cái lưỡi mình nói năng bình tĩnh nữa."
Ông Bowman đột ngột dừng lại và nhìn em bối rối. Em chỉ nói "Trời ạ, tôi rất tiếc khi biết hai vị có một mối bất hòa nho nhỏ. Chắc là trong giáo khu họ tiếc nhớ chú tôi nhiều lắm phải không ạ?" Ông Bowman thở dài một cái "À, có chứ! Chú ông! Ông hiểu cho tôi, khi nói chuyện với rồi tôi quên mất ông là họ hàng, ông trông chẳng giống ông ấy chút nào. Tôi mà nhớ ra điều này, hẳn đã giữ mồm giữ miệng, hoặc đừng có buột miệng nói ra những ý nghĩ ấy."


Em bảo ông ta em hoàn toàn hiểu ông, định hỏi thêm đôi câu nữa thì có người đến gọi ông ta đi làm việc khác. Tiện đây, anh cũng đừng nên để tâm, cho rằng ông ta có điều gì phải sợ trong vụ điều tra về việc mất tích của chú Henry – mặc dù chẳng phải nghi ngờ gì, ông ta sẽ thao thức cả đêm và nảy ra ý nghĩ là em nghi ngờ ông ta có liên quan. Sáng mai có lẽ em sẽ được nghe những lời thanh minh. Em dừng bức thư ở đây cho kịp chuyến thư cuối.
Thư thứ ba.
Ngày 25 tháng 12 1937.
Anh Robert thân mến! Thật là một lá thư lạ lùng viết vào ngày Giáng sinh, và thực ra cũng chẳng vấn đề gì. Hoặc nếu có – anh sẽ là người phán xét. Chưa có yếu tố quyết định nào cả. Những người từ Bow Street nói rằng họ chẳng tìm ra một manh mối nào hết. Kéo dài quá rồi, thời tiết lại không được thuận lợi làm mọi dấu vết mờ nhạt không sử dụng được. Chẳng ai nhặt được một vật dụng gì thuộc về chú Henry.
Như em trông đợi, sáng nay tâm trí ông Bowman có vẻ bồn chồn, vừa sáng sớm đã nghe ông nói rất to – có thể là cố tình – vừa những người trên Bow Street xuống đang ở ngoài quán rượu, về vấn đề mọi người ở đây thương tiếc mục sư ra sao, và cần phải lật từng hòn đá (ông ta có vẻ thích thú câu này lắm) để tới được sự thật. Em nghĩ ông ta phải là tay hùng biện trong các cuộc chè chén nhậu nhẹt.
Trong khi em đang ăn sáng thì ông ta đến chỗ em, nhân cơ hội cầm một cái bánh nướng xốp lên, khẽ nói "Thưa ông, tôi hy vọng ông hiểu cho, tình cảm của tôi đối với người họ hàng của ông không hề bị một sự tinh quái nguy hiểm nào thúc đẩy. Elizar, cô có thể ra ngoài để lại tôi với quý ông đây, ông cần gì tự tay tôi sẽ đem tới. Xin lỗi ông, tôi xin ông biết cho, con người ta không phải bao giờ cũng làm chủ được mình, nhất là khi tâm trí họ bị tổn thương bởi những từ ngữ mà tôi đã đi hơi xa khi nói rằng không nên tận dụng (giọng ông ta cao lên và mặt đỏ lựng). Không, thưa ông, nếu ông cho phép tôi xin giải thích cho ông bằng vài từ thôi, tình trạng chính xác của mối bất hoà. Cái thùng bia – thực chất chỉ là một thùng bia nhỏ thôi.
Em nghĩ đã đến lúc ngắt lời ông ta, bảo rằng đi vào chi tiết việc này không ích gì lắm cho cả hai. Ông Bowman đồng ý, bình tĩnh nói tiếp "Vâng, xin đồng ý với ông. Như ông nói, dù ở đây hay ở đâu có lẽ nó không quan trọng đến vấn đề hiện tại. Chỉ muốn ông hiểu là cũng như ông, tôi sẵn sàng giúp một tay trong công việc trước mắt chúng ta – cũng như tôi đã nói với mấy vị quan chức chưa đến ba phần tư giờ đồng hồ trước đây – là phải lật từng hòn đá lên để tìm kiếm, dù chỉ một tia sáng mong mạnh vào câu chuyện buồn này."


Thực tế, ông Bowman theo chúng em đi thăm dò khắp nơi, nhưng cho dù em tin ông ta thiện chí, ông ta cũng không tìm được chuyện gì nghiêm túc cả. Ông ta cứ làm như sẽ gặp được chú Henry hoặc người đã gây ra sự mất tích của chú ở đâu đó, cho nên cứ đi lung tung khắp cánh đồng, rồi đưa tay lên che mắt khỏi nắng, kêu gọi mọi người phải chú ý bằng cách dùng gậy chỉ chỏ vào đàn bò và những người đang làm đồng ở xa xa.Ông cũng nói chuyện khá lâu với mấy bà già mà chúng em gặp, thái độ rất nghiêm khắc, lần nào cũng quay về chúng em nói "Tôi xem chừng bà này chẳng liên quan gì đến câu chuyện buồn này cả. Các vị có thể tin ở tôi, khu vực này không thể tìm được ánh sáng nào, trừ phi bà ấy cố tình giữ lại tin gì đó."
Như em kể với anh từ đầu, chúng em chẳng thu được hiệu quả nào cả, đám Bow Street đã rời thị trấn để về London hay đi nơi đâu thì em không biết.
Buổi chiều hôm đó em ngồi cùng với một tay đi chào hàng, một thằng cha cũng ra dáng lịch sự. Hắn biết việc đang tiến hành, tuy mấy ngày vừa rồi hắn đi trên đường thật nhưng hắn chẳng thấy ai đáng nghi cả - kẻ lang thang, những thủy thủ đi vơ vẩn hoặc bọn gypsy. Hắn xem đến no nê vở múa rối Punch và Judy [1] cũng ngày hôm đó ở W…và hỏi xem đoàn múa rối đó đã đến đây chưa và khuyên em bằng cách nào cũng nên xem đừng bỏ lỡ. Punch tuyệt hảo, con chó Toby cũng vậy, hắn chưa từng xem vở kịch nào như thế bao giờ. Những con chó Toby, anh biết đấy, là những nhân vật mới nhất của vở diễn. Bản thân em mới xem có một lần, rồi chẳng mấy chốc mọi đàn ông đều phải xem thôi.
Giờ thì anh sẽ hỏi, em viết tất cả những cái này cho anh để làm gì? Em buộc phải viết, nó gắn với một chuyện vặt rất vớ vẩn (chắc anh sẽ nói thế) – một chuyện mà trong tình trạng tinh thần của em hiện nay – khá lo lắng, chỉ thế thôi chứ không có gì khác, em phải viết ra. Anh ơi, em có một giấc mơ, tệ hại nhất chưa từng thấy. Có cái gì trong đó đàng sau câu chuyện anh chào hàng kể cũng như sự mất tích của chú Henry? Anh sẽ là người phán quyết, em không đủ bình tĩnh và tư cách để phán xét.
Nó bắt đầu với hiện tượng tấm màn được kéo ra. Em ngồi ở một vị trí không rõ trong rạp hay ngoài trời. Ngồi bên cạnh em đều có người – ít thôi – nhưng em không nhận ra họ, cũng không nghĩ đến họ mấy. trước mặt em là vở diễn Punch and Judy, sân khấu rộng hơn bình thường, có những hình thù màu đen trên nền nhà vàng đỏ. Phía sau và hai bên đen ngòm, mặt trước thì đầy đủ ánh sáng. Em ngồi lơ lửng khá cao, lúc nào cũng ngóng chờ được nghe thấy tiếng pan-pipe [2] nổi lên cùng những tiếng Roo-too-too. Nhưng đã không thấy gì thì chớ, ngược lại còn có một tiếng gì rất to, một tiếng chuông to tướng ở đàng sau, không biết từ xa tận đâu vọng tới. Tấm màn nhỏ kéo lên: vở kịch bắt đầu.


Có lẽ ai đó đã viết lại vở Punch thành một vở bi kịch nghiêm trọng, nhưng dù người viết là ai thì cách biểu diễn như thế này cũng rất thích hợp với tác giả. Nhân vật Punch có tính cách của quỷ Sa tăng. Tác giả đã thay đổi các cách tấn công của Punch, đối với một số nạn nhân thì hắn nằm chờ đợi, nhìn vào bộ mặt rùng rợn của hắn – nó vàng nhợt và cứ chăm chăm ngó quanh hai cái cánh trông như thể con dơi hút mau người trong phác thảo ghê gớm của Fuseli. Đối với những người khác, hắn ra vẻ tử tế nịnh bợ, đặc biệt với một người xa lạ không may nào đó chỉ nói được mỗi một tiếng Shallabalhah – mặc dù em không nghe thủng Punch nói những gì. Nhưng sợ nhất là đến đoạn chết chóc. Tiếng cây đập vào sọ người "cốp" một cái, mọi khi là thứ tiếng vui tai em rất thích – nay nghe như làm vỡ xương sọ, nạn nhân run rẩy co quắp chân đá lung tung. Đứa hài nhi – càng kể càng thấy kỳ quặc – vẫn sống. Punch vặn cổ nó, tiếng ngạt thở và chít chít chẳng rõ thực hay hư.
Sân khấu tối hẳn đi mỗi lần tội ác được thực hiện. Cuối cùng có một tội ác được thực hiện hoàn toàn trong bóng tối, em không nhìn thấy nạn nhân và phải mất một thời gian mới nhận biết được sự việc . Nó đi kèm tiếng thở phì phò, những tiếng bị bóp nghẹt rất khủng khiếp, sau đó Punch tới ngồi chỗ bậc lên xuống sân khấu vừa quỳ vừa nhìn vào giầy dưới chân, đôi giầy đẫm máu, đầu ngoẹo về một bên, đã thế còn cười khẩy một cách ghế gớm, một số người xem phải lấy tay che mặt, em cũng muốn làm như vậy. Tuy nhiên lúc đó phía sau sân khấu sáng lên, nhưng phía trước không phải một ngôi nhà mà là một rừng cây, có một ngọn đồi dốc thoai thoải trông rất tự nhiên, có trăng chiếu xuống. Trong quang cảnh đó, từ từ hiện lên một hình tượng trông giống như một người nhưng cái đầu rất lạ - lúc đầu em không phân biệt được. Thân hình ấy không đứng trên hai chân mà bò hoặc lết ra giữa sân khấu tới gần Punch – Punch vẫn quay lưng lại và chính lúc này em nhận ra đây hoàn toàn không phải một vở múa rối. Punch vẫn là Punch, đó là sự thực, nhưng cùng với những nhân vật khác, là một nhân vật đúng theo một ý nghĩa nào đó, cả hai hành động hoàn toàn theo ý muốn của mình.
Nhìn lại Punch, em thấy hắn ngồi suy nghĩ rất là hiểm độc, một lúc sau hình như có cái gì đó làm hắn chú ý, hắn ngồi thẳng dậy và quay lại và rõ ràng là nhìn thấy cái người ở đằng sau đang lại gần, thực tế là rất gần, hắn tỏ ra vô cùng hoảng sợ, vội cầm lấy cây gậy, chạy bổ vào trong chỉ kịp gạt cánh tay kẻ đang đuổi theo – người này đột ngột lao mạnh ra quyết tóm cho được hắn. Vì bất chợt như thế nên em rất khó nhìn ra người đuổi theo hắn trông như thế nào, chỉ biết là một dáng hình cường tráng, mặc toàn đồ đen, đeo cổ áo giả của thầy tu, đầu trùm một cái túi màu trắng.


Cuộc săn đuổi không rõ kéo dài bao lâu, lúc thì giữa các cây cao, lúc thì thoai thoải dốc xuống cánh đồng, đôi khi cả hai dáng hình mất hút độ vài giây chỉ còn vài tiếng vọng vang ra là họ vẫn còn đang chạy. Cuối cùng đến một lúc Punch kiệt lực, loạng choạng từ bên trái đi vào, ngã vật mình xuống giữa các cây cao. Người đuổi theo ở sát đằng sau chạy tới nhìn hết bên này qua bên kia. Rồi cuối cùng nhận ra hình thù dưới đất, hắn cũng quăng mình xuống, lưng quay về phía khán giả và với một động tác nhẹ, giật phăng cái túi buộc ở đầu ra – đè luôn mặt mình vào mặt Punch.
Tiếp đến một tiếng thét dài và to, rùng cả mình, em bật dậy thấy mình đang nhìn chằm chằm vào mặt – mặt ai đố anh đoán được – một con cú rất lớn, ngồi trên bậu cửa sổ đối diện ngay cuối giường em – hai cánh giương lên như hai cánh tay bọc trong vải khâm liệm. Em quắc mắt nhìn vào đôi mắt vàng khè của nó, nó bay đi. Em lại nghe thấy có một tiếng chuông lớn, tiếng chuông duy nhất, nghe như tiếng chuông đồng hồ của nhà thờ, hẳn anh cũng cho là như vậy, nhưng em chắc là không phải, và rồi em tỉnh dậy hoàn toàn.
Tất cả những chuyện đó xảy ra nửa giờ trước đây, khó lòng ngủ lại được nên em ngồi dậy, mặc áo ấm, viết những chuyện không đâu vào đâu này trong những giờ đầu tiên của ngày Giáng sinh. Em có quên cái gì không nhỉ? À, không có con chó Toby, và tên đề ở phía trước rạp, cùng với tên vở diễn Punch and Judy, là tên hai người Kidman và Gallop, và chắc chắn đây không phải vở múa rối mà ông chào hàng bảo em để ý xem.
Lúc này, em hơi buồn ngủ nên dán thư lại, gắn si.

Thư thứ tư.
Ngày 26 tháng 12 1937
Anh Robert thân mến! Tất cả đã xong. Thi thể của chú đã được tìm thấy. Em xin lỗi đã không gửi ngay thư từ tối hôm qua. Đơn giản em không đặt nổi bút lên giấy. Những sự kiện đưa đến khám phá làm em quá đỗi hoang mang và cần phải nghỉ ngơi trọn một đêm cho hoàn hồn để đối phó với tình hình. Giờ thì em gửi cho anh nhật ký của ngày hôm nay, có lẽ là ngày Giáng sinh kỳ quặc nhất mà em đã trải qua, thực tế không bao giờ muốn trải qua.
Biến cố đầu tiên không đáng kể. Ông Bowman thức cả đêm Giáng sinh, đâm ra có vẻ thích bắt bẻ, soi mói. Ít nhất cũng dậy muộn và qua những gì em nghe được, không đầy tớ trai hay đầy tớ gái nào làm cho ông vừa lòng. Các cô gái phát khóc lên, em không dám chắc ông Bowman đã xử sự ra dáng một người đàn ông. Dù sao đi nữa, khi em xuống dưới nhà, ông ta cũng khàn khàn chúc em năm mới và mùa Giáng sinh tốt đẹp. Một lát sau, trong khi đến chào em lúc ăn sáng, ông ta chẳng còn có vẻ gì yêu đời thậm chí còn có việc Byron [3] trên quan điểm về cuộc sống.


"Tôi không biết" ông ta nói "ông có nghĩ như tôi không, chứ mỗi một lần Giáng sinh tới tôi lại thấy thế giới đáng kinh tởm hơn đối với tôi. Ta hãy cứ lấy ví dụ ngay trước mắt! đấy, cô Eliza, đầy tớ của tôi, ở với tôi đã mười lăm năm, tôi rất tin tưởng - ấy thế mà sáng nay, buổi sáng thiêng liêng nhất trong cả năm, chuông rung như thế - đúng sáng nay, nếu như không vì Thượng Đế nhìn xuống chúng ta – hẳn cô ta định – tất nhiên nhiên tôi có thể đi xa hơn để mà nói rằng – đã đặt phó mát lên bàn ăn sáng của ông rồi…" Thấy em định lên tiếng thì ông ta vẫy tay "Dĩ nhiên ông có thể nói rằng chính tôi đã cất đi, đã cho vào tủ khóa lại, tôi đã làm vậy và chìa khóa đây, mà nếu không đúng chìa ấy thì cũng cùng cỡ cái chìa a, đúng thế, nhưng ông nghĩ hành động ấy sẽ tác động đến tôi như thế nào không? Không nói quá chứ, cứ như đất sụt lở dưới chân. Tôi bảo Eliza, chẳng giận dữ gì lắm chỉ cương quyết thôi, thế mà cô ta trả lời thế nào ông có biết không? Ồ, đã có cái xương nào phải gãy đâu cơ chứ! Đấy thế đấy ông ạ, nó làm tôi đau lòng, tôi không muốn nghĩ đến nữa làm gì"
Im lặng một lúc lâu, em liền bảo "Vâng, kể cúng khó chịu thật" và hỏi ông buổi lễ sáng lúc mấy giờ. "Mười một giờ" ông Bowman thở dài "Thuyết giáo của ông Lucas tội nghiệp không được như của mục sư đâu. Mục sư và tôi tuy có đôi chút bất đồng nhưng vẫn phải nói như vậy, như thế càng thêm tiếc." Em thấy rõ ông ta lúng túng phải hết sức kìm nén để khỏi bàn đến câu chuyện khó nói là cái thùng bia, nhưng rồi ông ta nói "Nhưng tôi phải nói rằng đó là vị giảng đạo hay hơn, chẳng phải vì ông ấy có lý lẽ vững hơn, hoặc cho là mình có cái quyền ấy – tuy nhiên đây không phải câu hỏi đặt ra lúc này nhất là từ tôi. Người ta có thể hỏi "Ông ấy có phải người hùng biện không?" Tôi thì tôi trả lời "Ông cháu ông ấy đây, ông có quyền trả lời thì đúng hơn vì đây là nói về chú ông mà". Nhưng người khác có thể hỏi "Thế ông ấy có nắm được giáo đoàn của mình không?" Tôi trả lời "Còn tuỳ" Nhưng như tôi đã nói, được rồi ,Eliza, cô gái của tôi ạ, tôi đến ngay giờ đây. Mười một giờ, thưa ông, ông hỏi xem ghế cầu kinh của khách sạn King s Head ở chỗ nào mà ngồi". Eliza lúc này đang đứng rằng gần cửa, để rồi em xem xem thế nào."
Giai đoạn tiếp theo là nhà thờ. Em cảm thấy cha phó Lucas muốn diễn đạt cho thật đúng các tình cảm Giáng sinh xem ra có vẻ khó khăn. Cái cảm giác không yên tâm và luyến tiếc, dù cho ông Bowman nói thế nào đi nữa, cũng thấy ở khắp mọi nơi. Em không cho là ông để ý đến buổi lễ. Em cứ cảm thấy trong người bât ổn như thế nào ấy. Đàn organ nghiên ngấu – anh hiểu em nói gì – âm thanh từ khe gỗ chứa khí nén trong đàn organ tịt hai lần trong bài thánh ca Giáng sinh. Chuông giọng tenor, có lẽ do sơ ý chăng những người kéo chuông cũng chỉ kêu thoang thoảng có một lần trong một phút suốt cả thời gian bài thuyết pháp. Tu sĩ giáo khu cử một người đi kiểm tra chuông, nhưng anh này cũng chẳng làm được gì hơn. Lễ xong em thấy thật là mừng. Lại còn một việc rắc rối chẳng ra làm sao trước buổi hành lễ. Em đến nhà thờ hơi sớm hơn một chút, và gặp hai người đang khiêng một chiếc kiệu khiêng áo rước của giáo khu về lại chỗ của nó dưới tháp chuông. Nghe hai người đó kể lại thì đã bị khiêng ra nhầm, bởi người nào đó không ở nhà thờ nên không biết . Em cũng nhìn thấy tu sĩ của giáo khu đang vội vã gấp tấm khăn phủ quan tài bằng nhung đã bị nhậy cắn – cảnh tượng này thật không phải chút nào đối với một ngày Giáng sinh.


Sau đó em ăn cơm, và vì không muốn đi ra ngoài, em đọc tờ Pickwick mới, ngồi bên lò sưởi trong phòng khách, tờ báo em để dành suốt mấy ngày nay giờ mới đọc. Cứ tưởng nhờ đó mà tỉnh ngủ, ai ngờ cứ ngủ gà ngủ gật như ông bạn Smith của chúng ta. Khoảng hai giờ rưỡi chiều, một tiếng còi xé tai, rồi tiếng cười nói từ chợ vẳng tới. Punch and Judy rồi! Đúng là vở kịch anh chào hàng đã xem ở W…Nửa mừng nửa ngán – ngán vì giấc mơ khó chịu kia in dấu trong óc – tuy nhiên em quyết định xem, sai Eliza cầm một đồng cua ron ra đưa cho đoàn múa rôi và yêu cầu đi đến trước cửa sổ em mà diễn nếu có thể được.
Đoàn diễn rất mới, tên chủ đoàn là tên Ý, Forence de Calpigi. Có cả con chó Toby đúng như em được người ta bảo trước. Mọi người ở cả B. đến xem, nhưng không cản trở tầm nhìn của em vì em đang ngồi cạnh ô cửa sổ lớn nhất ở tầng hai và cách chỗ diễn chỉ độ mười mét.
Buổi diễn bắt đầu lúc ba giờ kém mười lăm phút theo đồng hồ nhà thờ. Dĩ nhiên rất hay, em nhẹ mình thấy những nỗi ghê sợ của giấc mơ về Punch tàn sát những người khách đến thăm xấu số của hắn chỉ thoáng hiện trong đầu em rồi hết ngay. Em phì cười về sự qua đời của người trông nom việc mở máy nước, của người lạ mặt, của thầy tư tế, ngay cả của đứa con nít nhỏ. Chỉ có mỗi một điểm hạn chế, đó là con chó Toby tru lên không đúng lúc. Có vẻ có chuyện gì đó làm cho nó hoảng loạn, một chuyện đáng kể. Vì không rõ chính xác vào thời điểm nào, con chó sủa lên một tiếng ai oán, nhảy xuống các bậc sân khấu, rồi nhảy vọt qua chợ xuống một phố nhỏ. Sân khấu chờ đợi, nhưng không lâu, em nghĩ mọi người cho rằng chẳng phải đuổi theo nó làm gì, đêm nó sẽ về.
Mọi người tiếp tục xem. Punch xử sự rất trung thực với Judy, cả với mọi người nữa, cuối cùng đến lúc giá treo cổ được dựng lên, cảnh quan trọng với ông Ketch được nằm trên sân khấu. Đúng lúc này xảy ra một việc mà em chưa thấy hết được tầm quan trọng của nó. Anh đã từng dự những buổi hành quyết, đã biết cái đầu kẻ tội phạm trông như thế nào với cái mũ chụp lên nó. Chắc hẳn anh cũng như em, không bao giờ muốn phải nghĩ đến nó một lần nữa, em cũng không muốn nhắc đến nó với anh nữa ấy chứ. Nó là một cái đầu giống hệt như thế, vì em ngồi ở trên cao mà, cho nên em nhìn được bên trong cái hộp để diễn trò mà lúc đầu các khán giả chưa nhìn thấy. Em đang chờ nó lộ ra cho khán giả thấy thì thay vào đó, từ từ dâng lên trên sân khấu một mặt người không che phủ gì cả với vẻ kinh hoàng em không sao tưởng tượng nổi. Cứ như thể người đó, không rõ là ai, bị kéo lên, hai tay bị trói giật cánh khuỷu, bị kéo ra phía giá treo cổ ở đằng sau. Ngay đằng sau khuôn mặt đó là cái đầu có mũ chụp. Rồi một tiếng thét và tiếp đến là tiếng kêu đánh rầm! Cả cái hộp diễn trò rơi xuống tan tành, thấy hai cẳng chân ngó nguáy, sau đó hai hình người – mọi người nói hai, em chỉ thấy một – chạy thục mạng qua quảng trường và mất hút trong một ngõ nhỏ dẫn ra cánh đồng.


Dĩ nhiên ai nấy đuổi theo. Em cũng đuổi theo nhưng tốc độ nhanh đến chết được, cuối cùng chỉ rất ít ra đến nơi. Đó là một hố vôi. Người đàn ông chạy băng qua bờ hố vôi như một người mù, ngã gãy cổ. Mọi người tìm người thứ hai khắp nơi, mãi tới khi em hỏi họ không biết hắn đã ra khỏi chợ chưa, lúc đầu ai nấy nói rồi, nhưng khi quay lại xem mới thấy hắn ở ngay dưới cái hộp, đã chết.
Nhưng trong hố vôi còn có xác chú Henry, đầu bị chụp một cái túi, cổ họng bị cắt nham nhở. Một góc nhọn của cái túi thò ra khỏi đất nên người ta mới chú ý. Em không sao viết được chi tiết hơn.
Em quên không nói tên thật của hai người đàn ông là Kidman và Gallop. Em chắc chắn đã nghe nói về hai tên này nhưng ở đây không ai biết gì về họ cả. Lễ tang xong em sẽ đến chỗ anh, và sẽ nói anh nghe khi ta gặp nhau rằng em nghĩ thế nào về tất cả mọi chuyện trên đầy.
Chú thích :

[1] một vở múa rối hài hước, truyền thống của Anh cho trẻ con xem trong đó nhân vật chính Punch đánh nhau với vợ mình là Judy
[2] dụng cụ âm nhạc làm bằng nhiều ống nhựa dài ngắn khác nhau ghép lại, khi chơi thì thổi vào đầu ống
[3] Nhà thơ Anh (1788 -1 824) thơ ông lộ nhiều nỗi chán chường trong cuộc sống



+++++++++++++++++++++++++++



Chương XX

"Chắc ông hay vớ được loại mẫu vật như thế này lắm phải không?" ông Dillet hỏi, chỉ cái gậy vào một vật mà đến lúc sẽ được tôi mô tả. Khi nói vậy ông biết mình nói dối. Chưa một lần nào trong hai mươi năm ròng, có lẽ trong cả một đời người là khác – ông Chittenden, người lùng sục những kho tàng bị lãng quên trong hàng chục tỉnh thành như thế, mong có được cơ may nắm giữ một mẫu vật loại này. Đối với một người sưu tầm thì đây là một áp phe lớn, và ông Chittenden biết như vậy.
"Loại đồ vật như thế này ấy ạ, thư ông Dillet! Đáng được đưa vào bảo tàng!"
"Bảo tàng thì thứ gì mà họ chẳng vơ!"
Ông Chittenden nghĩ ngợi một chút rồi nói "Những năm về trước tôi đã nhìn thấy một vật như thế này nhưng không đẹp bằng. Nhưng không phải tìm được ở ngoài chợ đâu. Tôi nghe nói họ có vài mẫu vật khá đẹp của thời kỳ sông nước. Không thưa ông, xin nói thực với ông, ông Dillet ạ, nếu ông muốn tìm một thứ gì tốt nhất mà tôi có thể tìm được – ông biết tôi có phương tiện tìm đến những thứ ấy, và tôi cũng muốn giữ danh tiếng của mình – thì, tôi chỉ việc dẫn thẳng ông đến cái thứ ấy mà nói rằng "Không thể nào tìm được cho ông thứ gì tốt hơn được nữa đâu."
"Nào, nào!" Ông Dillet dùng gậy gõ gõ trên sàn nhà có ý khen mỉa "thế ông biết cái tay mua hàng ngây thơ người Mỹ phải trả cái giá cắt cổ là bao nhiêu vậy?"
"Ồ, tôi chẳng bao giờ cứng rắn với khách hàng, dù người Mỹ hay ai khác. Ông xem đấy, nó giá trị lắm, giá như tôi biết thêm được chút về nguồn gốc của nó.."
"Hoặc biết ít hơn.." ông Dillet đế vào.
"Ha! Ha! Ông cứ đùa! Không, nhưng như tôi đã nói đấy, nếu như tôi mà biết thêm chút ít về mẫu vật này, dù ai cũng hiểu nó à một món thiên tài, kể từng góc của nó ấy, và nếu như người trong cửa hiệu tôi không sờ vào nhiều như thế từ khi nó được đưa về, thì tôi hẳn đã đòi một giá khác."
"Bao nhiêu? Hai mươi lăm chăng?"
"Ông nhân giá đó lên gấp ba cho, thưa ông. Bảy mươi lăm."


"Tôi chỉ trả năm mươi."
Dĩ nhiên điểm thoả thuận ở trung gian, không quan trọng chính xác là bao nhiêu, tôi nghĩ có lẽ sáu mươi ghinê, chỉ biết là nửa giờ sau, vật đó được gói lại, và một giờ sau đó ông Dillet đã đưa nó vào xe để lái về nhà. Ông Chittenden tay cầm tấm ngân phiêu, qua cánh cửa nhìn ông ta đi khỏi, mỉm cười rồi trở lại phòng khách, vẫn còn mỉm cười với bà vợ đang pha trà. Ông ta dừng lại nơi ngưỡng cửa.
"Bán xong rồi" ông ta nói.
"Thật là nhờ trời!" Bà Chitteden vừa nói vừa đặt bình trà xuống "Ông Dillet mua chứ gì?"
"Phải."
"Ông ấy chẳng mua thì rồi cũng có người khác mua."
"Ồ tôi cũng không biết nữa, nhưng mình ạ, ông ấy là người tốt."
"Biết đâu đấy, nhưng ý tôi ông ấy chắc cũng chẳng vì một chút xáo trộn ấy mà hoảng lọan."
"Thì đó là ý mình, nhưng theo tôi, số ông ấy là phải chứa nó. Tuy nhiên, chúng ta không còn nó nữa, thế là xong, một điều ta phải cám ơn là đúng rồi."
Hai ông bà Chittenden ngồi xuống uống trà.
Còn ông Dillet và vật mới mua được? Nó là cái gì vậy? Nó là cái đầu đề câu chuyện tôi kể bạn nghe đây. Trông nó ra sao, tôi xin chỉ rõ cho bạn thấy.
Xe vừa đủ đặt nó ở ghế sau, ông Dillet ngồi với tài xế ở ghế trước. Xe đi rất chậm, mặc dù các buồng của ngôi nhà búp bê được chèn kỹ bằng bông, vẫn cần tránh dằn xóc, bởi trong đó còn xúm xít bao nhiêu là vật nhỏ xíu nữa. Thời gian chạy qua mười dặm làm ông rất lo lắng cho dù đã yêu cầu bác tài xế lái xe cẩn thận. Cuối cùng đến cửa nhà, Collins, người quản gia, ra mở cửa.
"Này Collins, anh phải giúp tôi đem vật này ra, việc hết sức tinh tế đấy. Hãy để nó đứng thẳng. Ở trong đấy các thứ không được chuyển dịch chỗ đâu. Để xem ta sẽ đặt nó ở đâu nào? (sau một lát suy nghĩ) có lẽ để trong phòng tôi, thế đã. Trên cái bàn to ấy."
Nó được đưa lên căn phòng rộng của ông Dillet ở tầng hai, trông ra con đường đi lên cổng. Giấy bọc được gỡ ra, mặt trước ngôi nhà lộ ra, suốt một, hai giờ đồng hồ sau đó, ông Dillet chỉ lo gỡ hết các miếng đệm, đặt những thứ trong mỗi gian phòng bé xíu vào trật tự.


Sau khi nhiệm vụ tương đắc này được hoàn thành, tôi phải nói là khó lòng kiếm được một mẫu vật nào hoàn hảo và hấp dẫn hơn ngôi nhà búp bê kiểu Gô tích đứng trên ngọn đồi Strawberry Hill trên cái bàn giấy rộng của ông Dillet, được chiếu sáng rực rỡ bởi ánh nắng chiều xuyên nghiêng qua ba cửa sổ cao có khung kính trượt.
Toàn bộ chiều dài của nó là một mét tám, kể cả nhà thờ nhỏ áp vào sườn trái mặt trước nhà. Chuồng ngựa ở bên phải. Khối chính của toà nhà, như tôi đã nói, theo kiểu Gô tích. Các cửa sổ hình cánh cung trên có chóp nhọn, với những cái móc và hình chạm giống như ta thường thấy ở vòm các ngôi mộ xây hẳn vào trong tường. Các góc nhà đều có các tháp nhỏ, trên phủ những tấm ván ô cong. Nhà thờ nhỏ có các tháp nhọn và trụ ốp, trong tháp có cả chuông, cửa sổ kính màu. Mặt trước ngôi nhà mở ra, ta có thể thấy bốn phòng lớn, phòng ngủ, phòng khách, phòng ăn và bếp. Mỗi phòng đều có đồ đạc riêng.
Chuồng ngựa bên phải, hai tầng, đủ cả ngựa xe, bồi ngựa, có đồng hồ gõ chuông và mái vòm Gô tích cho chuông đồng hồ.
Phải mất nhiều trang mới mô tả được trang bị của toà nhà, nào là xoong chảo trong bếp, ghế ngồi thếp vàng trong phòng khách, nào là tranh ảnh, thảm trải sàn, đèn chùm, giường bốn cột, khăn trải bàn, cốc tách, bát đĩa…Thôi để ta tưởng tượng ra vậy. Tôi chỉ muốn nói nền nhà hoặc chân tường, chân cột mà cái nhà đứng trên đó (vì ở dưới có một chiều sâu cho các bậc tam cấp đi lên cửa trước, một sân hiên và một phần lan can) có một loạt các ngăn kéo trong đó xếp đủ loại rèm cửa, quần áo để những người trong nhà thay đổi, tóm lại đủ mọi vật dụng cho không biết bao nhiêu loạt thay hình đổi dạng và tái trang bị, đều đáng say mê thích thú hết.
"Đúng là tinh hoa của Horace Walpole [1]. Nhà văn hẳn đã viết gì đó về cái nhà này." Đó là lời ông Dillet quỳ trước toà nhà, lẩm bẩm với niềm say sưa khâm phục "Tuyệt vời! Hôm nay đúng là ngày của ta và không có sai lầm nào. Năm trăm bảng có vào đây sáng nay ta cũng chẳng thiết, thế mà với một phần mười số tiền đó ta lại được một thứ đẹp nhất dù có tìm trong cả thị trấn Chà chà! Nó làm người ta đâm sợ có chuyện gì xảy ra chống lại nó. Dù sao thì cũng cứ xem thử những người trong nhà ra sao."
Ông đem họ ra xếp thành hàng. Chỗ này có cơ hội kiểm kê các bộ quần áo. Tôi không làm nổi!
Có một vị quý tộc với một phu nhân, ông ta mặc đồ sa tanh xanh, bà vận đồ thêu. Hai đứa trẻ một trai, một gái, một bà bếp, một cô giữ trẻ, một người hầu, bọn đầy tớ coi sóc chuồng ngựa, hai người dẫn ngựa trạm, một dánh xe, hai giữ ngựa.
"Còn ai nữa không? Có thể lắm chứ!"
Màn của chiếc giường bốn cọc trong phòng được buông kín cả bốn phía chung quanh, ông lấy ngón tay khẽ tách màn và sờ vào trong giường. Ông vội giật ngón tay lại ngay, bởi vì có một cái gì đó – không hẳn là cựa quậy, nhưng nhượng bộ - theo cái cách của người đang sống. Rồi ông kéo màn lại, màn chạy êm ro trên dây căng – và lôi ra khỏi giường một cụ già quý tộc tóc bạc phơ mặc áo ngủ dài bằng lanh, dầu trùm mũ ngủ sau đó đặt cụ bên cạnh mấy người kia. Thế là đủ mặt.

thay đổi nội dung bởi: APOLONG, 31-03-2009 lúc 07:56 PM. Lý do: Gộp 2 bài gần nhau
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #22  
Cũ 31-03-2009, 07:57 PM
APOLONG's Avatar
APOLONG APOLONG is offline
Điều Hành Viên
 
Tham gia: 14/11/2008
Họ và tên: Apolong
Bài viết: 677
Xã: Tình khác
Gửi tin nhắn qua Yahoo chát tới APOLONG
Default Trả lời : [Truyện Ma Kinh Dị] - Giếng Thở Than - [+16]

Sắp đến giờ cơm tối, thế là ông Dillet mất năm phút đặt bà phu nhân và hai đứa trẻ vào phòng khách, ông quý tộc vào phòng ăn, đầy tớ vào bếp và chuồng ngựa, cụ già vào lại giường. Bản thân ông thì lui vào phòng thay quần áo của mình ngay bên cạnh, và đến mười một giờ đêm chúng ta mới thấy lại ông.
Ông có cái thói kỳ lạ là nằm ngủ với các bộ sưu tập quý nhất của mình vây quanh. Phòng lớn ta nhìn thấy ông lúc này chỉ có cái giường, còn bồn tắm, tủ quần áo, mọi vật dụng dùng cho việc đóng bộ thì ở phòng bên rất thuận lợi, riêng cái giường, bốn cột nằm giữa phòng ngủ, bản thân nó đã là cả một gia tài, phòng này còn đôi khi dùng làm chỗ viết lách, ngồi chơi, thậm chí tiếp khách. Đêm nay ông lui về đó, tinh thần đặc biệt cao hứng.
Tại đây thì không thể nghe thấy tiếng chuông đồng hồ nào trong tầm tai, cầu thang không có đồng hồ, chuồng ngựa cũng không, tháp chuông nhà thờ ở xa xa cũng không. Ấy thế mà ông Dillet đang ngủ ngon bỗng giật mình tỉnh dậy khi nghe chuông đồng hồ điểm một giờ.
Ông sửng sốt đến nỗi không những mở chong mắt nín thở, mà còn ngồi thẳng dậy trên giường.
Suốt cho đến sáng ông vẫn cứ tự hỏi, làm sao mà trong phòng không có ánh sáng, ngôi nhà búp bê trên bàn vẫn cứ sáng trưng lên? Nhưng đúng như vậy thật. Nó là do mặt trăng sáng vằng vặc soi tỏ toà nhà bằng đá trắng có lẽ cách đó nửa dặm, mọi chi tiết đều in hình rõ nét. Các cây cao xung quanh. Sau ngôi nhà và sau nhà thờ nhỏ. Rõ ràng ông cảm thấy hơi lạnh của tiết trời một đêm tháng Chín. Trong chuồng ngựa có tiếng leng keng, tiếng vó ngựa dậm chân. Thêm cú sốc nữa là bên trên ngôi nhà không phải bức tường phòng ông với những bức tranh treo ở đó mà là một bầu trời đêm sâu thẳm và xanh ngăn ngắt.
Không phải một, mà nhiều cửa sổ có ánh đèn, ông nhận ra ngay đây không phải ngôi nhà búp bê bốn phòng với mặt trước nhấc ra được, mà là một nhà nhiều phòng, một toà nhà thực sự - nhưng được nhìn thấy như qua một lăng kính. "À, mi định cho ta xem một cái gì đây." Ông lẩm bẩm và nhìn đăm đăm vào những cửa sổ sáng đèn. Ông nghĩ, nếu trong đời thực thì cửa sổ lúc này phải đóng hết và che rèm chứ, tuy nhiên nhờ thế mà ông nhìn thấy rõ những gì diễn ra bên trong.
Hai gian phòng có đèn sáng – một ở tầng trệt bên phải cửa ra vào, một trên gác bên trái – phòng thứ nhất khá sáng, phòng thứ hai thì mờ mờ. Phòng dưới nhà là phòng ăn. Bàn đã được dọn sẵn, nhưng bữa ăn đã xong, chỉ còn ly tách và chai rượu. Còn mỗi người đàn ông mặc sa tanh xanh và người đàn bà mặc đồ thêu ngồi lại, sát vào nhau bên bàn và chuyện trò với nhau rất sôi nổi, khuỷu tay chống lên bàn, im lặng lắng nghe cái gì không biết. Có một lúc ông ta đứng dậy, tiến đến mở cửa sổ, thò đầu ra ngoài lắng tai nghe ngóng. Một cây nến cháy trến giá nến bằng bạc đặt trên tủ buýt phê. Khi người đàn ông rời khỏi cửa sổ cũng là lúc ông ta rời khỏi gian phòng, bà phu nhân cầm giá nến, đứng im nghe ngóng, trên mặt như lộ vẻ sợ sệt hãi hùng phải cố kềm chế, và kềm chế được. Đó cũng là một bộ mặt đáng ghét, to bẹt và đầy vẻ quỷ quyệt, giả nhân giả nghĩa. Khi người đàn ông trở lại, bà ta cầm lấy một thứ gì nho nhỏ từ tay chồng rồi vội vã ra khỏi phòng. Ông kia cũng biến mất nhưng chỉ ít phút sau lại xuất hiện. Cửa trước mở ra, ông bước ra đứng trên bậc trên cùng cửa toà nhà, nhìn trước nhìn sau nghe ngóng, cuối cùng nhìn lên cửa sổ phòng trên, dứ dứ nắm đấm.


Giờ nhìn lên phòng trên. Có chiếc giường bốn cột. Một y tá hoặc đầy tớ ngồi trong cái ghế bành ngủ say sưa; trên giường thì một cụ già đang nằm, tỉnh táo, có vẻ lo lắng thì đúng hơn vì cứ cựa quậy và động đậy các ngón tay tựa như gõ nhịp trên khăn trải giường. Cạnh giường, một cánh cửa mở ra, đèn trần sáng, cho thấy bà phu nhân đi vào. Bà ta đặt giá nến trên bàn, đến gần lò sưởi đánh thức y tá dậy. Tay bà ta cầm một bình rượu kiểu cổ đã mở nút. Y tá đón lấy, rót một ít vào cái xoong bằng bạc, cho thêm tí đường và ít gia vị từ cái bình con trên mặt lò sưởi rồi đưa vào lửa hâm nóng. Cụ già yếu ớt vẫy bà phu nhân. Bà ta tiến lại, mỉm cười, nắm lấy cổ tay ông cụ như bắt mạch, môi mím lại có vẻ kinh ngạc. Cụ nhìn bà ta lo ngại, chỉ ra cửa sổ nói cái gì đó, bà ta gật đầu và làm giống như người đàn ông dưới nhà, tức là mở khung cửa ra và lắng tai nghe ngóng hết sức chú tâm, sau đó rụt đầu vào và lắc đầu nhìn cụ già, cụ hình như thở dài.
Dung dịch sữa đường đã bốc hơi, y tá rót một ít ra cái bát bằng bạc có hai tay cầm, bưng đến bên giường. Cụ già không muốn uống, vẫy tay xua đi nhưng hai người kia cứ cúi xuống ép, dựng cụ ngồi dậy, đưa cái bát vào tận miệng, cụ đành phải uống, uống gần hết bát sữa, bằng nhiều hớp. Họ đỡ cụ nằm xuống. Bà phu nhân mỉm cười chúc cụ ngủ ngon rồi ra khỏi phòng, mang theo cái bát, chai rượu cả cái xoong. Y tá trở lại ghế bành, tiếp theo là một đoạn im lặng hoàn toàn.
Bỗng nhiên cụ già ngồi dậy, hình như kêu lên, y tá tỉnh dậy bước đến bên giường. Trông cụ thật khủng khiếp – mặt đỏ bừng bừng, sau đó tím đen lại, hai mắt trắng dã, hai tay ôm chặt lấy ngực, sùi bọt mép.
Trong một lúc y tá chạy ra khỏi phòng, mở toang cửa và có lẽ gào to cấp cứu, rồi lại chạy tới giường vuốt ngực cho cụ, đặt cụ nằm. Bà phu nhân, ông chồng và nhiều đầy tớ nữa hốt hoảng chạy bổ vào phòng, cụ già xỉu đi trong tay y tá rồi nằm xuống, mặt mũi co quắp đầy vẻ tức giận trong cơn hấp hối, cuối cùng toàn thân duỗi thẳng cẳng.


Chỉ ít phút sau, đuốc sáng bên trái ngôi nhà. Một xe ngựa tới cửa. Một người đàn ông đội bộ tóc giả màu trắng, áo quần màu đen, lặng lẽ chạy lên bậc tam cấp mang theo chiếc cặp da, đến cửa thì gặp hai vợ chồng nhà kia, bà vợ tay nắm chặt chiếc khăn tay, ông chồng mặt mày bi thảm cố tự chủ để trấn tĩnh. Họ đưa người mới tới vào phòng ăn, ông này mở các giấy tờ ra, quay về phía hai vợ chồng, sửng sốt nghe họ trình bày. Ông ta gật gật đầu, vung nhẹ hai bàn tay có ý từ chối ở lại đêm, vài phút sau chậm rãi bước xuống bậc tam cấp, chui vào xe ngựa, xe quay trở lại con đường vừa đi tới. Người đàn ông đứng trên bậc thềm nhìn theo, thoáng hiện nụ cười phấn khởi trên khuôn mặt bị thịt. Đêm tối rơi xuống toàn cảnh trên khi ánh đèn trên xe ngựa mất hút.
Nhưng ông Dillet ngồi sừng sững trên giường. Ông ta đã đoán ra đoạn tiếp theo. Toà nhà còn sáng lung linh một lúc lâu.
Rồi tình hình trở nên khác trước. Đèn sáng lên trên nhiều cửa sổ khác nữa, trong đó có một cửa sổ tầng trên cùng và một cửa sổ nào đó chiếu sáng lớp kính màu của dãy cửa sổ nhà thờ nhỏ. Làm sao ông Dillet trông xuyên được qua cửa sổ nhà thờ chính ông cũng không hiểu. Chỉ biết là bên trong trang trí đẹp như hết thảy các phòng trong toà nhà. Những cái đệm đỏ nhỏ xíu trên bàn giấy kính, các ghế ngồi hát kinh có vòm che kiểu Gô tích, hành lang phía Tây nhà thờ cùng chiếc đàn organ có tháp nhọn với các ống bằng vàng. Ở chính giữa mặt sàn lát đen và trắng là một chiếc kiệu khiêng quan tài. Bốn góc thắp bốn ngọn nến. Trên kiệu khiêng là một chiếc quan tài phủ vải nhung màu đen.
Đang nhìn thì ông thấy những nếp gấp của tấm nhung lay động, hầu như một đầu bị dựng lên rồi cứ thế truợt xuống, lộ chiếc quan tài màu đen có tay nắm bằng bạc và phiến kim loại ghi tên người chết. Một giá nến chao đảo, rơi xuống đất. Ông Dillet vội quay đi nhìn lên cửa sổ tầng trên cùng toà nhà nơi hai đứa trẻ con ngủ trong một chiếc giường đẩy, ngoài ra còn một cái giường bốn cọc cho vú em nằm. Không thấy bà vú đâu, chỉ thấy cha và mẹ chúng, họ mặc đồ tang, nhưng tác phong thì chẳng có vẻ gì là tang tóc, họ nói cười náo nhiệt với nhau hoặc với một trong hai đứa trẻ, chúng trả lời thì họ cười rộ. Rồi người cha rón rén đi ra mang theo một tấm áo trắng treo trên mắc cạnh cánh cửa. Ông ta đóng cửa lại sau lưng. Một hai phút sau, cửa từ từ mở ra, một cái đầu trùm kín thò vào, hình dạng kỳ quái, bước tới hai chiếc giường đẩy, vung tay lên lộ ra người cha đang cười ầm ĩ. Trẻ con sợ quá, thằng con trai lấy khăn giường trùm kín đầu, đứa con gái lao ra khỏi giường vào tay mẹ nó. Thế là cả cha và mẹ dỗ dành các con, đặt chúng ngồi trên lòng, vuốt ve chúng, vứt tấm áo trắng đi cho chúng thấy là không có gì đáng sợ, cuối cùng đặt chúng lại vào giường, vẫy tay từ biệt chúng. Họ ra khỏi thì bà vú đi vào, đèn tắt.
Ông Dillet vẫn ngồi im phăng phắc theo dõi.


Tự nhiên có một thứ ánh sáng nhợt nhạt ghê ghê – không phải đèn, không phải nến – hiện ra ở cánh cửa cuối phòng. Cửa mở. Người xem chỉ biết là có một cái gì đó vào phòng – trông thì giống con ếch nhưng to bằng người thật, đầu có tóc trắng lơ thơ. Vật đó bận rộn làm cái gì ở chỗ hai cái giường đẩy không biết, nhưng không lâu. Có tiếng kêu sau đó lịm đi ngay như ở tận đâu đâu, tuy thế nghe cũng khiếp vía lên được – vẳng đến tai ông Dillet.
Toàn thể toà nhà lúc này nhốn nháo cả lên. Ánh đèn đi tới đi lui, cửa hết mở lại đóng, hình người qua lại phía sau cửa sổ, đông hồ trên tháp chuông chuồng ngựa gõ một tưởng . Rồi tất cả lại im lặng.
Một lần nữa bóng tối lại được xua tan, lộ ra mặt trước toà nhà. Từ chân bậc tam cấp những dáng hình đen xếp thành hai hàng, tay cầm đuốc. Nhiều bóng hình đen nữa dang bước xuống bậc tam cấp, khiêng một quan tài lớn rồi đến quan tài nhỏ. Những hàng người mang đuốc cùng hai chiếc quan tài lặng lẽ đi về phía bên trái.
Giờ khắc đêm khuya trôi dần – chưa bao giờ chậm chạp đến thế, ông Dillet nghĩ. Dần dần từ chỗ ngồi thẳng trên giường, ông nằm xuống, tuy nhiên không sao chợp mắt được. Sáng hôm sau ông cho mời bác sĩ.
Bác sĩ thấy ông trong tình trạng thần kinh bị xáo động mạnh, khuyên ông đi nghỉ ở miền biển. Ông lên xe đi về bờ biển phía Đông tĩnh lặng, êm ả. Một trong những người đầu tiên ông gặp ở nơi đây là ông Chittenden có vẻ như cũng được người ta khuyên đưa vợ ra biển nghỉ ít ngày để thay đổi không khí. Ông này nhìn ông Dillet một cách ngờ vực. Tất nhiên không không có lý do.
"Ông Dillet, tôi không ngạc nhiên thấy ông có vẻ tâm thần bất an. Cái gì? Vâng, ồ, nói đúng hơn là tinh thần hoảng loạn, chắc chắn rồi, vì nhìn thấy những gì xảy ra, nhà tôi cũng đã tận mắt nhìn thấy. Nhưng xin hỏi ông. Một là tôi phải đập đi một mẫu vật đáng yêu như thế hơn là nói với khách hàng "Tôi sắp bán cho ông một vở kịch bằng hình ảnh của một toà lâu đài thời cổ, nó đều đặn cứ một giờ sáng là diễn." Nếu là ông, ông bảolàm thế nào? Lại còn nữa, hai thẩm phán trị an ở sau nhà, nhìn ông bà Chitenden trên xe đến nhà an dưỡng của quận, cũng như dân chúng trên đường phố đang bảo "Xem kìa! Tôi đã bảo lão sẽ ra nông nỗi ấy! Lão đó nghiền rượu lắm mà! Mà tôi, ở cạnh đó, chỉ mình tôi, là người không uống rượu bao giờ! Đó, hoàn cảnh tôi nó như thế. Làm sao bây giờ? Đem cái đồ đó trả về cửa hiệu chăng? Ông nghĩ vậy chăng? Không! Nhưng tôi nói với ông tôi sẽ làm gì. Tôi sẽ trả lại tiền cho ông, trừ đi mười bảng tôi đã bỏ ra để mua, rồi ông muốn làm gì nó thì làm."
Chiều muộn ngày hôm ấy, trong phòng hút thuốc của một khách sạn, hai người đàn ông rầm rĩ chuyện trò với nhau như thế.


"Ông thực sự biết gì về cái nhà búp bê đó? Nó từ đâu ra?"
"Ông Dillet ạ, thú thực là tôi không biết gì về ngôi nhà đó cả. Dĩ nhiên nó từ một căn nhà thôn quê chứa chất đủ mọi thứ linh tinh, ai cũng đoán ra được. Nhưng tôi tin nó không ở cách đây quá một trăm dặm đâu. Về hướng nào thì tôi không biết. Tôi chỉ đoán thôi. Người cầm tấm ngân phiếu của tôi trả là một người quen bán đồ cho tôi, nay tôi không nhìn thấy đâu nữa, nhưng tôi nghĩ vùng này là vùng làm ăn của hắn. Đó, tôi đã nói tất cả với ông. Nhưng ông Dillet ạ, có một thứ mà đối với tôi nó như liều thuốc. Cái người đàn ông hẳn ông nhìn thấy đi xe đến cổng toà nhà, là thầy thuốc chứ gì? Vợ tôi nghĩ vậy, nhưng tôi cho rằng đó là luật sư, vì hắn có mang theo các giấy tờ, rồi giở ra mà."
"Tôi cũng cho là vậy" ông Dillet đáp, càng nghĩ càng thấy dó là di chúc của ông cụ, chuẩn bị để ký.
"Tôi cũng nghĩ thế" ông Chitteden nói "Di chúc không để lại tài sản cho hai vợ chồng, đúng không? Thật là một bài học cho tôi, tôi chẳng bao giờ đi mua những ngôi nhà búp bê nữa, tranh cũng không – lại còn vụ đầu độc ông già ngoại ấy – phải, tôi mà biết, đời nào tôi chơi vào . "Live and let live – mọi người đều có quyền sống – châm ngôn suốt đời tôi là vậy, câu này đúng lắm."
Lòng tràn ngập những tình cảm cao cả ấy, ông Chittenden lui về phòng mình. Ông Dillet thì sáng hôm sau tới viện nghiên cứu của địa phương hy vọng tìm được manh mối cho những uẩn khúc làm bận tâm trí ông. Ông thất vọng nhìn vào trang giang đại hải những ấn phẩm của Canterbury và York Society về các quyển sổ ghi chép lại những việc trong giáo khu của vùng này. Chẳng có ngôi nhà nào giống như trong cơn ác mộng. Cuối cùng quá chán nản, ông vào căn phòng của những vật vô thừa nhận, nhìn vào một mô hình nhà thờ ở trong một hộp kính: Mô hình nhà thờ St Stephen, Coxham. Do ông J.Merewether tặng, phác thảo Ilbridge House. Công trình của tổ tiên ông James Merewether, chết năm 1786. Mô hình phảng phất có nét gì đó liên quan đến nỗi hoảng loạn của ông. Ông tới chỗ bản đồ treo tường: Ilbridge House ở giáo khu Coxham. Coxham là một trong những giáo khu có tài liệu trong đống sổ ngoài kia, thế là ông tìm ra được ghi chép việc chôn cụ Roger Milford, bảy mươi sáu tuổi, ngày mười một tháng Chín năm 1757, Roger và Elizabeth Merewether, chín tuổi và bảy tuổi, vào ngày mười một cùng tháng. Manh mối này đáng theo đuổi tuy rất mong manh. Buổi chiều ông phóng xe đến Coxham. Phía Đông của cánh Bắc nhà thờ là nhà thờ nhỏ của gia đình Milford. Trên mặt tường phía Bắc có bảng ghi ba người trên: Roger, người cao tuổi nhất, xem ra xứng đáng với tên gọi, Người cha, thẩm phán, đấng nam nhi". Bia kỷ niệm dựng bởi con gái yêu Elizabeth, "người chỉ còn sống không lâu sau cái chết của vị thân quyến chỉ lo âu cho phúc lợi của con gái mình và cái chết của hai đứa con thân yêu." Câu cuối này rõ ràng là được thêm vào mấy dòng nguyên thủy kể trên.


Một phiến đá cuối cùng là bia của James Merewether, chồng Elizabeth "Người mà thời trẻ thực thi rất giỏi thứ nghệ thuật mà những người đánh giá tài năng phải tặng cho ông ta cái tên Vitruvius [2] của nước Anh, nhưng tiếc thay mất người bạn đời trìu mến cùng con cái đầy triển vọng, thành ra đến tuổi trung niên và tuổi già đã lui vào ẩn dật. Cháu trai thừa kế của ông do biết ơn ông đã đau thương dựng mấy chữ này nói lên những ưu việt của ông."
Hai đứa trẻ thì chỉ đơn giản có bia tưởng niệm, cả hai chết vào đêm mười hai tháng Chín
Ông Dillet tin chắc toà nhà Ilbridge House đã chứng kiến vở bi kịch. Trong một quyển tranh phác thảo cổ, ông tìm được bằng cớ cho thấy ông nói đúng. Nhưng Ilbridgw House giờ đây không còn là thứ mà ông tìm kiếm nữa. Nó là một toà nhà kiểu Elizabeth những năm bốn mươi, bằng gạch đỏ, gốc xây đá, mọi trang trí cũng vậy. Cách đó một phần tư dặm, trong một nơi đất trũng của công viên có những cây cao leo dầy dây thường xuân và các bụi cây rậm rịt vẫn còn vết tích của nền nhà nay mọc toàn cỏ dại. Vài mảnh lan can đá còn rải rác đây đó, vài đống đá phủ dây thường xuân, những viên đá chạm thô sơ có móc nhọn theo ông Dillet, đó là di tích của một ngôi nhà cổ xưa.
Lái xe rời khỏi làng, đồng hồ toà nhà điểm bốn gìờ chiều. Ông Dillet giật mình để tay lên vành tai nghe cho rõ. Đây không phải lần đầu ông nghe thấy tiếng chuông đồng hồ này.
Ngôi nhà búp bê chờ người hẹn mua từ bên kia Đại Tây dương đang được gói kín nằm trong một ngăn chuồng ngựa nhà ông Dillet, đâu như Collins gửi nó đi vào hôm ông Dillet khởi hành đi bờ biển phía đông.
(Có thể có người nói – cũng không phải không có chút bất công – rằng đây chỉ là một biển thể của truyện dài tranh in khắc tôi đã viết trước đây. Tôi chỉ dám hy vọng trong đó có nhiều điểm khác tuy có sự trùng lặp về mô típ)

Chú thích :
[1] Horace Walpole (1717 – 1797) một trong những nhà văn Anh khởi xướng viết tiểu thuyết trinh thám
[2] Vitruvius – kiến trúc sư La mã thế kỷ I trước công nguyên. Tác giả cuốn chuyên luận De Acrchitectura mà các bản sao chép và mô phỏng từ thế kỷ 15 đã nuôi dưỡng bước tiến hoá của kiến trúc cổ đại Châu Âu



+++++++++++++++++++++++++++


Chương XXI

Ông Davidson qua tuần đầu của tháng Giêng một mình tại một thị trấn ở vùng quê. Nhiều hoàn cảnh phối hợp đã đưa ông vào quá trình diễn biến quyết định này. Họ hàng gần gũi nhất của ông thì ra nước ngoài chơi thể thao, bạn bè sẵn sàng thay thế họ thì bị bệnh truyền nhiễm gì đó. Phải tìm người khác thương tình mà giúp cho ông thôi. "Tuy nhiên" ông nghĩ "ai chẳng có cơ hội cho họ rồi, với lại nhiều lắm ta chỉ phải chống đỡ mấy ngày là cùng, nhân dịp ta có thể bước đầu làm quen với giấy tờ của Leventhorp. Ta cũng có thể dùng thời gian đi tới mấy nơi gần như Caulsford, làm quen hàng xóm láng giềng. Thế nào ta cũng phải xem di tích ngôi nhà Leventhorp và các ngôi mộ trong nhà thờ mới được."
Ngày đầu đến khách sạn Swan ở Longbridge là một ngày mưa bão, ông chỉ ra đến cửa hàng thuốc lá. Ngày hôm sau tương đối sáng sủa, ông đi Gaulford, có vui hơn một chút, nhưng chẳng đưa lại kết quả gì. Ngày thứ ba quả là một viên ngọc trong những ngày đầu tháng Giêng, trời quá đẹp để mà ở nhà. Chủ khách sạn cho biết một phương thức mà trong mùa hè các khách du lịch thường áp dụng để đi chơi. Đó là đi xe lửa buổi sáng về phía Tây, độ chừng hai trạm ga thôi, rồi xuống, đi bộ ngược trở lại, qua thung lũng Tent, qua Stanford St Thomas và Stanford Magdalene, cả hai đều là những ngôi làng xinh đẹp. Ông chấp nhận kế hoạch này, và giờ đây ông đang ngồi trên chuyến tàu chín giờ bốn mươi lăm phút để tới Kingsbourne Junction, mở bản đồ vùng này ra xem.
Có mỗi một khách đồng hành là một ông già hút tẩu, có vẻ hay chuyện. Thế là ông Davidson, sau khi đưa đẩy vài câu về thời tiết và trả lời về thời tiết, hỏi ông cụ đi có xa không.
"Không thưa ông, sáng nay tôi đi không xa lắm, tôi tới nơi mà người ta gọi là Kingsbourne Junction, cách đây một ga nữa thôi."


"Tôi cũng đi đến đó."
"Thế ạ? Thế ông có biết gì về vùng này không?"
"Không. Tôi đi đến đó chỉ để dạo bộ ngược lại tới Longbridge, nhân thể nhìn ngắm cảnh vật đồng quê một chút."
"Ồ quả vậy, hôm nay đúng là một ngày đẹp trời cho một quý ông đi dạo."
"Vâng, đúng thế. Sau khi đến Kingsbournce ông còn đi xa không?"
"Không, đến Kingsbourne Junction là gần đến nơi. Tôi đi thăm cô con gái, sống ở Brockstone, từ Kingsbourne Junction đi bộ băng qua cánh đồng khoảng hai dặm. Chắc trên bản đồ có chỉ đấy.
"Để tôi xem, đây là Kingsbourne…tới Brockstone thì đi ngả nào? Theo hướng Stanford ư? À, đây rồi, Brockstone Court, giữa một công viên. Sao không thấy làng nhỉ?"
"Ông không thấy làng Brockstone được. Ở đấy chỉ có toà nhà đó với nhà thờ nhỏ thôi."
"Nhà thờ nhỏ? À, có đánh dấu ở đây. Rất gần chỗ toà nhà. Vậy nó cũng ở thuộc toà nhà ấy?"
"Vâng gần lắm, cách mấy bước chân, thuộc về toà nhà ấy. Con gái tôi là vợ người giữ nhà thờ mà, nó sống ở đó trông nom mọi thứ vì gia đình chủ toà nhà và nhà thờ nhỏ này ở xa mà."
"Gia đình họ không có ai ở đây ạ?"
"Không, từ ít năm nay. Cụ già quý tộc ở đó khi tôi còn là một đứa trẻ, bà phu nhân sống lâu hơn, đến gần chín mươi tuổi. Bà ấy chết xong thì gia đình về ở Warwickshire, họ để lại cả khu đó, nhưng đại tá Wildman thỉnh thoảng về đi săn, anh chàng Clark là quản lý thì vài tuần về một lần xem tình hình, người trực tiếp coi giữ là chồng con gái tôi."
"Vậy thế ai sử dụng nhà thờ nhỏ? Dân quanh vùng chăng?"
"Ồ, không, không ai sử dụng cả. Mà có ai đâu? Người quanh vùng thì đi lễ ở nhà thờ Stanford St Thomas, con rể tôi nay đi nhà thờ Kingsbourne, bởi vị quý tộc ở Stanford, ông ta có tay Gregory hát thánh ca khiến nó không thích, con rể tôi bảo là nghe con lừa già hí suốt cả tuần rồi, đến chủ nhật nó muốn nghe cái gì vui hơn." Đến đây ông già che miệng cười "Đó, con rể tôi nói vậy đấy. Nó bảo là nghe như lừa già kêu…xin thừa nhận là đúng như vậy."


Ông Davidson cũng cười rất tự nhiên, bụng nghĩ Brockstone và nhà thờ nhỏ có thể nằm trong chuyến đi bộ của mình được. Bản đồ chỉ ra rằng từ Brockstone có thể đi xuyên qua thung lũng được Tent rất dễ dàng nếu theo đường Brockstone – Longbridge. Vì vậy chuyện vui với câu nói dí dỏm của anh con rể qua rồi, ông lại nhớ tới nhiệm vụ của mình, khẳng định cả Brockstone và nhà thờ nhỏ đều thuộc diện "di tích cổ", ông già lại sẵn sàng đưa ông đi tới nơi ấy và con gái ông cũng vui lòng đưa ông đi thăm thú mọi nơi.
"Nhưng chẳng có gì nhiều đâu ông ạ. Như hồi gia đình họ còn sống ở đây, các tấm gương đã được bọc lại, tranh, màn, thảm gấp lại hết. Tuy nhiên, ông vẫn có thể xem được ít nhiều, vì con gái tôi thỉnh thoảng lại phải lật ra xem có bị nhậy cắn không."
"Cám ơn ông, tôi cũng chẳng cần xem những thứ đó lắm, chỉ cần cô ấy đưa tôi đi thăm bên trong nhà thờ nhỏ, thế thôi."
"Ồ, thế thì được quá đi chứ, vì nó có chìa khoá mở, thỉnh thoảng vẫn vào quét bụi mà. Phải nói một nhà thờ nhỏ rất đẹp. Con rể tôi bảo là nó rất thích nhà thờ ấy. Nếu không phải nghe Gregory hát thánh ca. "Tôi nghe con lừa già hí cả tuần rồi…" đúng thế". Ông cụ lại mỉm cười.
Đường băng qua cánh đồng để tới Brockstone rất tuyệt, đa phần nằm ở vùng cao nhất trong khu, cảnh trí nhìn rộng, xung quanh nào những dãy núi, đồng cỏ, cánh đồng đã cày, nào rừng cây xanh thẳm, tận cùng khá đột ngột về phía bên phải nơi cao nguyên nhìn xuống thung lũng là một con sông lớn ở mạn Tây. Cánh đồng cuối cùng mà họ đi qua có các bụi cây thấp vây quanh, chẳng mấy chốc họ đi xuống con đường nhỏ khá dốc. Brockstone như nằm lọt vào trong một thung lũng hẹp. Rồi không lâu sau vừa thoáng nhìn thấy những ống khói lò sưởi bằng đá không còn tỏa khói và những mái nhà lợp đá phiến ngay dưới chân, họ nhận ra mình đang chùi giày vào cửa sau của Brockstone Court, mấy con chó nằm đâu không biết sủa ầm lên, bà Porter vội vàng chạy ra quát chúng im rồi chào cha và ông khách, mời họ vào nhà.

Dĩ nhiên ông Davidson được dẫn đi thăm các phòng ốc của toà nhà, cho dù nó hoàn toàn không được sử dụng. Tranh, thảm, rèm, đồ đạc đêu được bọc kín hoặc cất vào một chỗ, như cụ Avery nói. Sự khâm phục của ông bạn chúng ta chỉ nằm ở chỗ diện tích rộng lớn của các căn phòng và một trần nhà có vẻ do một hoạ sĩ từ London tản cư về năm xảy ra trận dịch lớn vẽ cảnh chiến thắng của công lý và thất bại của nổi loạn. Trần nhà này được ông Davidson chiêm ngưỡng không giấu giếm. Những bức chân dung của Cromwell, Ireton, Bradshaw, Peters và nhiều người khác nữa, đang quằn quại trong dằn vặt được thể hiện một cách kỹ lưỡng, chứng tỏ có ý đồ rõ ràng vì vẽ mất nhiều công phu.


"Phu nhân Sadleir cho vẽ các chân dung này đấy ạ, cũng là người cho xây nhà thờ nhỏ. Họ nói bà là người đầu tiên lên London dự buổi khiêu vũ trên nấm mồ của Crownwell" ông Avery bảo rồi vui vui nói thêm "Tôi cho là bà ta được hả dạ chút ít, nhưng chẳng biết còn ai muốn trả tiền vé khứ hồi đi London để làm mỗi việc đó thôi không, con rể tôi cũng bảo vậy. Bản thân nó chắc gì đã chịu mất tiền để làm việc ấy. Mary ạ, cha vừa kể với quý ông đây về chuyện Henry, chồng con, nói về Gregory hát thánh ca ở nhà thờ Stanford, hai người cười mãi."
"Ha! Ha! Đúng là chúng tôi cười mãi." Ông Davidson lại cố tỏ ra công bằng với câu đùa của người trông coi nhà thờ nhỏ. "Nhưng nếu như bà Porter định chỉ cho tôi xem ngôi nhà thờ nhỏ ta phải làm ngay, bởi ngày ngắn lắm, tôi phải trở về Longbridge trước khi trời tối."
Ngay cả nếu như Brockstone Court không được in trong tờ Đời Sống nông thôn (theo tôi thì không), tôi cũng không có ý định nêu ra những đặc sắc của nó ở đây, nhưng về ngôi nhà thờ nhỏ này, thì thế nào tôi cũng phải nói một đôi lời. Nó ở cách toà nhà chừng một trăm mét, có nghĩa trang riêng với các cây bao quanh. Nó được xây bằng đá trên chiều dài hơn hai mét, theo kiểu Gô tích, kiểu giữa thế kỷ mười bảy. Nhìn chung giống như những nhà thờ nhỏ của Đại học Oxford, trừ có một thánh đường riêng, giống như một nhà thờ giáo khu, và một mái vòm kỳ kỳ trên có tháp chuông ở góc Tây nam.
Cửa Tây mở ra, ông Davidson thốt lên một tiếng kêu kinh ngạc vì nội thất đầy đủ và phong phú của nó. Vách ngăn, bàn kinh, chỗ ngồi, kính, tất cả đều cùng một thời kỳ, càng đi sâu vào gian giữa giáo đường và nhìn thấy hộp đựng đàn organ – có các ống mạ vàng - ở hành lang phía Tây, ông càng thấy mãn nguyện. Các cửa sổ gian giữa giáo đường đều sơn gia huy, trong thánh đường còn có các bức tượng, kiểu thường thấy ở các công trình điêu khắc chàng Abbey Dore, Lord Scudamore.
Nhưng đây không phải là chỗ để ta nhìn lại về khảo cổ học.
Trong khi ông Davidson bận ngắm nghía tàn dư của cây đàn organ (theo tôi chắc thuộc một trong các nhà Dallam), ông già Avery cũng vào thánh đường, nhắc các miếng vải che bụi khỏi các tấm nệm bằng nhung xanh trên các bàn cầu kinh lên. Đây hẳn là chỗ gia đình ngồi đọc kinh.
Ông Davidson nghe ông già nói với giọng khe khẽ mang vẻ bí mật ngạc nhiên "Mary, tất cả các sách kinh lại mở ra rồi này!"


Câu trả lời có vẻ càu nhàu đúng hơn là lấy làm lạ "Chà, con chẳng bao giờ mở ra cả!"
Bà Porter đi đến chỗ cha đứng, họ thì thào với nhau. Ông Davidson thấy rõ họ bàn bạc chuyện gì đó không bình thường, nên xuống cầu thang hành lang bên trái với họ. Trong thánh đường không có gì lộn xộn cả, sạch sẽ và đẹp đẽ nữa là đàng khác, nhưng tám quyển kinh khổ hai nằm trên nệm của bàn cầu kinh đều mở ra.
Bà Porter hơi sợ "Ai nhỉ? Chỉ có con là có chìa khoá thôi, và chỉ có mỗi một cửa ra vào ta vừa đi qua, cửa sổ đều có then chắn, cha ạ, con thật không thích chuyện này tí nào!"
"Chuyện gì vậy, thưa bà Porter?" Ông Davidson hỏi.
"Không ạ, không có chuyện gì lớn, chỉ là mấy quyển sách kinh này, lần nào vào quét dọn tôi cũng đều gấp chúng lại rồi lấy khăn che bụi phủ lên, theo đúng lời ông Clark bảo từ hồi đầu tôi đến đây, ấy thế mà lần sau lại thấy chúng mở ra, và vẫn đúng vào trang ấy – mà như tôi đã nói, làm gì có ai vào được đây vì cửa ra vào và cửa sổ đều đóng. Với lại ai vào đây một mình chắc cũng thấy ghê ghê, tôi thì vốn dạn dĩ quen nên mới không cảm thấy vậy – hay là chuột? Chẳng lẽ chuột lại làm việc ấy thưa ông?"
"Kể cũng lạ, chắc không phải chuột. Bà nói lúc nào cũng mở ra cùng một trang à?"
"Vâng, đúng chỗ ấy, vào đúng cái bài Thánh ca ấy, lúc đầu tôi không để ý, sau có chỗ dòng in đỏ, tôi mới đâm ra chú ý."
Ông Davidson đi dọc các ghế ngồi cầu kinh nhìn vào các quyển sách kinh để mở. Đúng là chúng cùng mở ở trang có bài thánh ca số sáu, trên đầu ngay giữa con số và chữ Deus Laudum – ngợi ca Chúa Trời là mục "Để cho ngày 25 tháng Tư." Tuy không hiểu biết cặn kẽ lịch sử của sách kinh thông thường nhưng ông cũng thấy đoạn này rất kỳ quặc, hoàn toàn không được quyền đưa thêm vào nguyên bản. và dù cho ông nhớ 25 tháng Tư là ngày Thánh Mark, ông không hình dung được đoạn Thánh ca dữ dằn này liên quan gì đến ngày lễ trên. Ông liền lật thêm mấy trang nhỏ nữa, và hiểu rằng những việc như vậy cần sự chính xác tuyệt đối, ông để mười phút chép lại từng dòng một. Ngày tháng là năm 1653, nhà in Anthony Cadmas. Ông tiếp tục giở xem những bài thánh ca thích hợp cho từng ngày. Phải, thêm vào đó lại còn cái câu khó hiểu "Cho ngày 25 tháng Tư, bài thánh ca 109." Một chuyên gia hẳn nghĩ đến nhiều điểm cần làm sáng tỏ, nhưng nhà sưu tầm đồ cổ của chúng ta không phải chuyên gia, ông cầm sách lên, thấy đóng bìa da xanh lơ, có cùng hình gia huy in trên kính cửa sổ.
Cuối cùng ông hỏi bà Porter "Bao lâu bà thấy nó mở ra một lần?" "Thưa ông, thật rất khó nói, chỉ biết đã nhiều lần rồi. Cha ạ, cha có nhớ lần đầu con nói với cha là khi nào không?"

thay đổi nội dung bởi: APOLONG, 31-03-2009 lúc 08:09 PM. Lý do: Gộp 2 bài gần nhau
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #23  
Cũ 31-03-2009, 08:07 PM
APOLONG's Avatar
APOLONG APOLONG is offline
Điều Hành Viên
 
Tham gia: 14/11/2008
Họ và tên: Apolong
Bài viết: 677
Xã: Tình khác
Gửi tin nhắn qua Yahoo chát tới APOLONG
Default Trả lời : [Truyện Ma Kinh Dị] - Giếng Thở Than - [+16]

"Có, con ạ, cách đây năm năm cha đến thăm con vào kỳ lễ Michaelmas (lễ thánh Michael), con vào uống trà, bảo "Cha, sách kinh nằm trên nệm dưới tấm che bụi bàn cầu kinh lại mở ra rồi." Và cha hoàn toàn không hiểu con nói gì, cha hỏi "Sách nào?" Henry, con rể tôi ấy mà, bảo "Làm sao có ai vào được, có mỗi một cửa vào mà ta khoá, cầm chìa đây cơ mà, trong khi cửa sổ nào cũng có thanh chặn, thôi được, để lần này chính tay tôi đặt sách xem có mở ra nữa không." Nhưng nó vẫn cứ mở, và đã năm năm rồi, con ạ. Anh Clark xem ra chẳng chú tâm gì đến chuyện ấy, nhưng anh ta có sống ở đây đâu, có phải việc của anh ta là đến phủi bụi đồ đạc vào một chiều tối tăm nào đó đâu!"
"Bà Porter, mỗi lần vào quét dọn bà còn thấy gì lạ nữa không?" Ông Davidson hỏi thêm.
"Không ạ, thưa ông" bà Porter nói "nhưng có điều là tôi cảm thấy cứ như có ai ngồi ở đó, bên trong vách ngăn ấy, và nhìn tôi suốt trong giờ tôi phủi bụi các ghế cầu kinh và quét hành lang. Nhưng tôi không trông thấy gì hơn ngoài tôi, như một câu tục ngữ, không còn gì tệ hơn thế nữa. Hy vọng là vậy."

Trong cuộc trò chuyện tiếp theo sau đó (không kéo dài bao nhiêu), chẳng ai thêm thắt được gì cho trường hợp này cả. Chia tay thân ái với ông Avery và con gái ông ta, ông Davidson đi bộ tám dặm. Thung lũng bé xiu Brockstone chẳng mấy chốc dẫn ông ra thung lũng lớn hơn, thung lũng Tent, rồi đến Stanford St Thomas, đến đây ông nghỉ ngơi khoẻ khoắn hẳn lên. Ta chẳng cần đi theo ông suốt dọc đường tới Longbridge làm gì. Nhưng lúc thay tất xuống dưới nhà ăn tối, bỗng ông thốt lên "Hiện tượng quái quỷ thật!" bây giờ ông mới thấy lạ thêm. Đợt sách kinh xuất bản năm 1653, bảy năm trước thời kỳ khôi phục chế độ quân chủ Anh (1660), năm năm trước khi Cromwell [1]chết, tức là khi sử dụng cuốn sách này, chỉ nói riêng chuyện đó ra, đã đủ phạm tội hình sự. Phải là tay bạo gan mới dám đề tên và ngày tháng vào trên trang sách nhỏ. Ông Davidson nghĩ, có lẽ đó không phải tên ông ta, trong thời buổi khó khăn tên nhà xuất bản thường là tên giả.
Tối hôm đó, đứng trong khách sạn Swan thăm hỏi về giờ tàu chạy, ông chợt thấy một chiếc xe hơi đậu ngay trước cửa, một người đàn ông bé nhỏ, mặc áo lông bước ra, đứng trên bậc tam cấp chỉ chỏ, xổ ra vài tiếng với âm sắc ngoại lai với người lái xe. Vào đến khách sạn, ông ta để lộ ra bộ tóc đen, khuôn mặt xanh tái, chòm râu nhỏ, một kính kẹp mũi gọng vàng, nhìn chung hóa ra trông cũng sạch sẽ gọn gàng. Sau đó hắn lên phòng, tới bữa cơm chiều, ông Davidson mới gặp lại. Và chỉ có hai người tại phòng ăn tối đó nên người lạ mặt dễ dàng tìm cách bắt chuyện với ông Davidson, hắn tỏ ra sốt sắng muốn biết vì sao ông Davidson đến cái vùng này vào mùa này.
"Ông có thể cho biết từ đây đến Arlington bao xa không?" một trong những câu hỏi kế tiếp của hắn đã làm lộ ra một phần kế hoạch của hắn, bởi ông Davidson nhớ lại có nhìn thấy ở nhà ga tấm quảng cáo sắp bán đấu gia tại Arlington Hall các đồ đạc cũ, tranh ảnh, sách. Hẳn đó phải là một tay buôn bán ở London.


Ông bèn đáp "Tôi không biết vì tôi chưa bao giờ đến đấy. Có lẽ nó nằm cách Kingsbourne chưa đến mười hai dặm. Tôi thấy sắp có buổi bán đấu giá đồ cũ ở đó thì phải."
Người kia nhìn ông dò hỏi, ông bèn cười to lên "Không đâu," ông làm như trả lời câu hỏi của hắn "tôi không phải là người canh tranh với ông đâu, ngày mai tôi đã đi khỏi nơi này rồi."
Thế là không khí dịu đi liền, tay đi buôn hàng, tên là Hamberger, thừa nhận hắn quan tâm đến sách, và nghĩ rất có thể tìm thấy ở những thư viện vùng quê mùa cố giả này thứ gì đó bù lại cho chuyến du hành. Vì hắn ta nói "Dân Anh chúng ta vốn có biệt tài thu thập của hiếm từ những nơi không thể ngờ được. Đúng không thưa ông?"
Suốt buổi tối, hắn tỏ ra quan tâm đến đề tài những thứ hắn và nhiều người khác đã tìm được. Hắn bảo "Sau cuộc bán đấu giá, tôi sẽ tranh thủ đi khắp vùng này một chút, ông có thể bảo tôi chỗn nào hay hay không?"

Nhưng ông Davidson, mặc dù có nhìn thấy mấy hòm sách được khóa chặt ở Brockstone Court, không lộ ý định của mình. Ông không thích thằng cha này chút nào. Hôm sau trong khi ngồi trên tàu, ông chợt thấy loé ra chút ánh sáng về những bí ẩn hôm qua. Vô tình mở quyển lịch mua cho năm mới, ông nhìn ra điều đáng chú ý của ngày 25 tháng Tư, đó là "ngày Thánh Mark, ngày sinh của Oliver Cromwell, năm 1599." Đó, cái đó, cùng với trần nhà có vẽ trên đó, xem ra giải thích được khá nhiều. Hình ảnh phu nhân Sadlier trở nên thực thể hơn trong trí tưởng tượng của ông Davidson, một người mà tình yêu đối với Nhà thờ và Đức vua đã dần dần nhường chỗ cho sự căm ghét khôn cùng đối với quyền lực – thứ quyền lực đã làm kẻ này phải im lặng cũng như đã chém chết kẻ kia. Bà và một số ít người như bà đã tiến hành buổi lễ nhà thờ ác nghiệt và kỳ quặc nào để ăn mừng trong cái thung lũng xa xôi hẻo lánh hết năm này sang năm khác? Bà đã làm thế nào để trốn tránh chính quyền đương thời? Và một lần nữa, việc kiên trì giở trang sách kinh ra chẳng phải là điều đồng nhất đến kỳ lạ có tính cách bà, theo như ông biết sao? Thật hay biết mấy nếu như vào ngày 25 tháng Tư có người nào đó ở gần Brockstone đến


nhìn vào trong nhà thờ nhỏ xem trong lễ diễn ra những gì. Nghĩ đến đó ông chợt liên hệ đến bản thân mình, tại sao người đó không phải là ông kia chứ? Ông với một người bạn đồng tâm nhất trí nào đó. Ý ông đã quyết.
Vì không biết gì về việc in cuốn sách kinh, ông định bụng phải làm cho sáng tỏ mà không nói rõ lý do cho ai biết. Tôi xin nói ngay là công việc này hoàn toàn không kết quả. Một nhà văn đầu thế kỷ mười chín, một nhà văn có lối nói chuyện khá sóng gió và khoa trương về sách, cho biết đã nghe nói tới việc in ra cuốn sách kinh chống Cromwell vào giữa thời kỳ khối thịnh vượng chung. Nhưng ông ta cũng cho biết chưa bao giờ nhìn thấy bản in ấy, thành ra không ai tin. Đi sâu vào vấn đề, ông Davidson nhận thấy có thể lời nhà văn nói dựa trên cơ sở thư từ qua lại với ai đó sống gần Longbridge, thông tin về quyển sách kinh Brockstone là từ đó mà ra.
Tháng ngày trôi qua, đã đến ngày lễ Thánh Mark, không có gì cản trở việc đi Brockstone của ông Davidson với một người bạn mà ông đã thuyết phục đi cùng với mình, riêng với người này thì ông thố lộ điều bí ẩn. Vẫn chuyến tàu chín giờ bốn mươi lăm phút sáng đưa họ tới Kingsbourne, vẫn cánh đồng cũ đưa họ tới Brockstone. Nhưng hôm nay họ dừng chân dọc đường nhiều lần để hái hoa anh thảo vàng. Cánh rừng xa xa và vùng cao nguyên những cày bừa hôm nay có màu sắc khác, và trong các bụi cây nhỏ, như lời bà Porter "Lúc nào cũng có những con chim duyên dáng khiến ta không sao tập trung tư tưởng được."
Bà ta nhận ra ông Davidson ngay, và sẵn sàng đưa họ vào trong nhà thờ nhỏ. Ông khách mới, ông Witham cũng sửng sốt vì vẻ phong phú và hoàn chỉnh trong nhà thờ như ông Davidson lần trước, "Có lẽ trong cả nước Anh chỉ có một ngôi nhà thờ nhỏ như thế này" ông nói.
"Bà Porter, sách vẫn bị mở ra chứ?" Ông Davidson hỏi khi họ đi lên giữa giáo đường.
"Trời, vẫn vậy, thưa ông" bà Porter vừa nói vừa lật những tấm khăn che bụi lên "Đây, ông xem, ồ, nhưng chúng đóng lại đây này. À, ra là tại tôi, tuần trước tôi thấy chúng gấp lại sau khi quý ông ấy chụp ảnh chiếc cửa sổ phía Đông, tôi có kiểm tra lại các khăn phủ bụi trước khi đóng cửa, và vì có ru băng sẵn đó, tôi buộc chúng lại luôn. Bây giờ tôi mới nhớ ra tại sao từ trước tôi chẳng buộc luôn ru băng vào xem thử nó có mở ra nữa không nếu có thì cứ thử làm như vậy một vài lần xem sao."


Tong lúc đó hai người đàn ông bận xem những quyển sách , ông Davidson bảo:
"Bà Porter ạ, tôi xin lỗi chứ có gì nhầm lẫn ở đây. Không phải những quyển sách cũ."
Chẳng cần nói nhiều về những tiếng kêu mà bà Porter thốt lên, tiếng mọi người hỏi dồn dập. Sự thể là thế nào? Hồi tháng Giêng, có một quý ông tới thăm nhà thờ nhỏ và có vẻ suy nghĩ rất lung, ông ta nói mùa xuân sẽ trở lại chụp vài kiểu ảnh. Chỉ một tuần trước đây, ông ấy quay lại cùng với xe hơi, mang theo một hộp nặng đựng những tấm kính dương bản, bà khóa ông khách lại trong nhà thờ vì ông ta có nói đến sự nổ, bà sợ hư hại, nhưng, không phải là nổ, mà hình như cái đèn chiếu chạy các tấm dương bản, chạy lâu lắm, đến hàng tiếng đồng hồ, rồi bà đến, cho ông ta ra, ông ta lên xe đi, mang theo cái hộp cùng mọi thứ rồi đưa bà tấm danh thiếp. Trời ơi! Ai dám nghĩ đến một chuyện như thế này! Hắn đã đổi các quyển sách và mang chúng đi mất!"
"Trông hắn ta như thế nào?"
"Trời ơi, người nhỏ bé, tóc đen, kính gọng vàng – chẳng biết có phải vàng thật không, đôi lúc tôi nghĩ không phải là một người quý tộc thật sự, người Anh thực sự, ấy nhưng nói tiếng Anh thạo, có tên tuổi trên danh thiếp hẳn hoi."
"Bà cho xem tấm danh thiếp được không? Vâng, T.W. Henderson, địa chỉ đâu đó gần Bristol. Vậy là, bà Porter, rõ ràng là cái gã Henderson này, gã tự gọi, đã xách đi mất của bà tám quyển sách kinh rồi đặt lại vào đó tám quyển sách khác cùng cỡ. Xin bà hãy nghe tôi nói đây. Bà phải kể ngay với chồng bà, nhưng cả bà lẫn ông chồng đừng hé môi với ai. Bà cho tôi địa chỉ ông quản lý Clark đi, tôi sẽ viết thư cho ông ta kể chính xác chuyện gì xảy ra, đó không phải lỗi tại bà, nhưng bà phải giữ kín chuyện này, bà có biết vì sao không? Vì thằng cha ăn cắp sách sẽ bán tống bán tháo chúng đi – xin nói với bà là đáng giá rất nhiều tiền đấy ạ - cách duy nhất ta tìm lại được chúng là đi tìm khắp nơi trong im lặng mà không nói gì."
Nhắc đi nhắc lại ý này dưới nhiều hình thức, họ đã thuyết phục được bà Porter nhất thiết phải im lặng, duy nhất được nói với ông cụ Avery vì cụ sắp tới thăm. Bà Porter bảo "Với cha tôi thì không sợ, cụ không phải là người hay chuyện."
Theo kinh nghiệm của ông Davidson thì cụ không giống vậy, nhưng quanh Brockstone có hàng xóm láng giềng nào đâu mà kháo chuyện, với lại cụ Avery phải hiểu rằng ngồi lê đôi mách chuyện này sẽ khiến cho vợ chồng Porter phải đi tìm chỗ làm khác.


Câu hỏi cuối cùng là cái tay gọi là Henderson kia có ai đi cùng không? "Không, khi đến đây thì không, hắn tự lái lấy xe, còn đồ đạc ấy ạ, để tôi xem, có đèn chiếu, hộp kính dương bản rong xe, khi tôi giúp đưa vào nhà thờ, và ra xe chỉ có vậy. Khổ quá, giá mà tôi biết! Khi hắn ta lái xe qua dưới cây thủy tùng bên cạnh nhà thờ thì tôi trông thấy có một cái gói trắng, dài, nằm trên nóc xe, lúc hắn đến tôi không thấy nó. Hắn ta ngồi ghế trước, ghế sau chỉ có mấy cái hộp. Thưa ông, ông nghĩ tên thật hắn ta không phải Henderson ạ? Trời ơi, thật là kinh khủng! Nhưng hãy tưởng tượng người bước vào nhà thờ này với ý đồ ấy rồi ta sẽ gặp chuyện rắc rối như thế nào, yên làm sao được!"
Họ bỏ lại bà Porter đang khóc lóc. Trên đường về, hai người bàn tính làm cách nào tốt nhất để để mắt tới các cuộc bán đấu giá có thể sẽ tổ chức sắp tới đây. Vừa rồi thằng cha Henderson – Homberger (có lẽ đây cũng chẳng phải tên thật của hắn) hẳn đã làm công việc sau: mang đúng số sách kinh xuống Brockstoen, tức là những quyển sao chép từ các nhà thờ nhỏ trường Đại học hoặc đại loại như vậy, đem về đóng lại, trông bên ngoài giống quyển thật, rồi đưa xuống thay thế. Một tuần trôi qua không thấy thông cáo gì về chuyện mất cắp. Tất nhiên hẳn phải mất một thời gian tìm hiểu xem những quyển kinh đó quý hiếm như thế nào, và rồi cuối cùng cẩn thận "đưa chúng vào đúng nơi đúng chốn". Riêng hai ông Davidson và ông Witham là những người hiểu biết nhiều về thế giới sách, họ hoàn toàn có thể vạch ra một chiến lược truy nguyên đến nơi đến chốn, duy họ có điểm yếu không ai biết cái tên mà thằng cha Henderson – Homberger sử dụng trong kinh doanh là gì. Nhưng rồi sẽ có nhiều cách để giải quyết vấn đề.
Tuy nhiên tất cả những kế hoạch trên tỏ ra không cần thiết.

Chúng ta được đưa tới một công sở ở London cũng ngày 25 tháng Tư ấy. Trong một căn phòng đóng kín lúc chiều hôm, có hai thanh tra cảnh sát, một người gác cửa, một thư ký trẻ măng, hai người sau mặt tái xanh có vẻ bồn chồn, ngồi trên hai ghế dựa và đang bị hỏi cung.


"Anh nói anh vào làm cho hãng của ông Poschwitz này bao lâu rồi? Sáu tháng? Công việc làm ăn của ông ta là gì? Đi dự các cuộc bán đấu giá tại nhiều miền trong nước rồi đem về những gói sách.Ông ta có cửa hiệu không? Không? Đem sách đến chỗ này, chỗ kia, đôi khi đến các nhà sưu tầm tư nhân. Được rồi. bây giờ, gần đây nhất ông ta đi đâu? Nói cho đúng một tuần trước đây? Có nói với anh là đi đâu không? Không. Chỉ nói là sáng hôm sau khởi hành từ nhà riêng và không có mặt ở cơ quan, nghĩa là ở đây chứ gì? Phải không nào? Trong hai ngày, sau đó anh sẽ đến làm việc như thường lệ. Nhà riêng ở đâu? À, đây, địa chỉ, đường Norwood. Được. Còn gia đình? Không ở trong nước này? Rồi. Từ khi ông ta về nhà, anh thấy biết những gì? Về nhà hôm thứ Ba. Hôm nay thứ Bảy. Có đem theo sách không? Một gói to. Để ở đâu? Trong két sắt. Anh có chìa khoá không? À thôi, không cần, nó đang mở. Khi về đến nhà trông ông ta thế nào? Vui vẻ? Nhưng trông là lạ thế nào ấy – ý anh định nói gì? Tưởng ông ta ốm, ông ta bảo thế ư? Ông nói có mùi kinh tởm trong mũi không làm sao hết được, bảo anh phải cho ông biết trước ai muốn gặp ông. Sự thể khác với mọi ngày? Và đều như vậy. Suốt một ngày thứ Tư, thứ Năm và thứ Sáu? Đi ra ngoài nhiều lần. Nói là tới Bảo tàng Quốc gia. Vẫn thường đến đó do công việc làm ăn. Đi đi lại lại rất nhiều trong phòng cơ quan mỗi khi về. Có ai đến trong mấy ngày vừa rồi không? Nhất là khi ông ta đi ra ngoài? Có ai gặp ông ta ở nhà không? Ông Collinson? Ông Collinson là ai? Khách hàng quen biết, biết địa chỉ không? Được, anh sẽ đưa địa chỉ đó cho chúng tôi. Anh rời hãng Poschswitz lúc mười hai giờ về nhà? Có ai trông thấy anh không? Ông gác cửa hả? Thôi được rồi. Bây giờ anh về nhà đợi chúng tôi gọi."
"Nào, bây giờ đến ông, ông gác cửa – tên ông là Watkins, phải không? Ông khai cho, và nói chậm chứ, để chúng tôi còn ghi."
"Tôi trực ở đây muộn hơn bình thường theo đề nghị của ông Poshwitz, ông ra lệnh gọi cơm trưa đưa vào phòng. Tôi ngồi trong sảnh từ lúc mười một giờ ba mươi phút, và nhìn thấy ông Bligh (thư ký) đi về lúc mười hai giờ. Sau đó thì không ai đến cả trừ những người mang cơm trưa, đến lúc một giờ chiều, về sau năm phút. Buổi chiều ngồi chờ mãi phát chán, tôi lên tầng trên xem thế nào. Cửa ngoài dẫn vào phòng mở, tôi tới cánh cửa đẩy, bằng kính, ở chỗ này. Ông Poshwitz đứng sau bàn đang hút một điếu xì gà, rồi ông đặt điếu xì gà lên mặt lò sưởi, lấy từ trong chùm chìa khoá một cái chìa, đi đến két sắt. Tôi gõ vào tấm kính, định hỏi ông có cần tôi đem cái khay thức ăn đi không, nhưng ông không chú ý, đang tập trung vào cánh cửa két sắt. Ông mở cửa tủ ra, cúi đầu vào trong có vẻ như nhấc ra một gói nặng từ đáy tủ. Và đúng lúc đó, thưa ông, tôi nhìn thấy một cuộn to cao đến một mét rưỡi, toàn vải falnen trắng cũ rách, rơi uỵch từ đâu xuống không biết, ngay cạnh cái tủ sắt, sát vào hai vai ông Poshwitz, ông đang cúi xuống, bèn đứng thẳng dậy, kêu lên một tiếng, hai tay vẫn đặt trên cái gói. Tôi nghĩ các ông không tin lời tôi nói, nhưng quả là sự thực như tôi đang đứng ở đây vậy, cái cuộn trắng đó đầu trên là một mặt người. Các ông chắc không thể ngạc nhiên hơn tôi, vì tôi đã nhìn thấy nhiều thứ trên đời. Xin tả để ông nghe, màu da mặt giống như màu tường này, (tường vẽ màu đất bằng màu keo) dưới có thắt một dải băng, đôi mắt khô khốc tựa như hai con nhện nằm trong lỗ. Tóc ư? Không thấy tóc, vì vải flanen che kín đầu. Tôi nhìn rõ lắm, nhớ như in một bức ảnh chứ không phải nhìn qua loa đâu. Cả cái tảng đó đổ vào vai ông Poschwitz, mặt nó giấu vào trong cổ ông đấy, cái vết thương tích ấy – giống hệt con chồn săn được con thỏ. Ông Poschwitz ngã lăn quay ra , dĩ nhiên tôi xông vào cửa, nhưng các ông biết, cửa khóa bên trong, tất cả những gì tôi có thể làm chỉ là rung chuông ầm ĩ lên gọi tất cả mọi người. Bác sĩ ngoại khoa đến và cảnh sát các ông đến, đó, các ông biết tất cả rồi đó. Nếu các ông không hỏi gì thêm hôm nay thì tôi xin về nhà vì câu chuyện này làm tôi đảo lộn hết cả người lên."


"Được!" một trong hai viên thanh tra nói. Và khi còn lại hai người "Thế nào?" Viên thanh tra kia hỏi, và chờ một lát "Bác sĩ ngoại khoa báo cáo thế nào?" "Anh có đấy thôi." "Phải. Tác dụng trên máu giống như bị rắn cắn, loại rắn độc nhất ấy. Tôi mừng cho ông ta là cái chết đến tức thì, trông ông ta kinh quá. Dĩ nhiên ta không thể giữ Watkins được, ta biết tất cả về ông ta rồi còn gì. Còn cái tủ két sắt bây giờ thì sao nhỉ?"
"Tốt nhất, chúng ta nên xem lại nó lần nữa, với lại chúng ta đã mở cái gói ấy ra đâu, cái gói mà ông ta bận rộn để lấy ra, đúng vào lúc bị chết ấy."
"Phải, này, nhớ cẩn thận vào, có thể có rắn ở trong ấy đấy. Soi đèn vào các góc trong ấy xem sao. Này, trong ấy đựng được cả một người thấp bé đấy, nhưng vấn đề thông khí thì sao nhỉ?"
"Có thể là" viên thanh tra kia vừa khảo sát cái két sắt bằng đèn pin vừa chậm rãi nói "Có lẽ chẳng cần thông khí lắm. Từ trong này hơi ấm toả ra. Trời ạ! Cứ như một cái vòm để đồ trong ngân hàng. Nhưng sao bụi tung mù mịt ra khắp phòng như thế này? Hay là từ trong két ra? Cửa tủ mở mà. Anh bưng cái gói này ra chỗ khác thì nó sẽ hết bụi, đúng không? Kìa, anh làm gì vậy?"
"Làm gì? Cũng như mọi trường hợp khác thôi chứ làm gì? Một trong những bí ẩn của London đây, theo như những gì tôi nhìn thấy. không thể hiểu được vì sao một cái hộp của ông thợ ảnh trong đầy những quyển kinh cổ khổ lớn lại khiến ta cần phải đi xa hơn nữa? Vì cái gói của anh trong toàn sách kinh cả mà?"
Viên thanh tra nói vậy là lẽ tự nhiên nhưng hơi vội vàng. Những gì kể trên kia rõ ràng là cơ sở phong phú cho cả một vụ tố tụng, và khi hai ông Davidson và Witham đến khai báo với Scotland Yard thì mọi việc được chắp nối thành một chu trình hoàn hảo.
Bà Porter nhẹ cả mình khi chủ nhà Brockstone không có ý định đặt lại các cuốn kinh nguyên gốc vào chỗ cũ, họ đặt chúng trong một két sắt ở ngân hàng trên tỉnh. Cảnh sát có cách riêng để báo chí không lôi vụ này ra, nếu không, những lời làm chứng của Watkins thế nào chẳng làm dấy lên nhiều đầu đề giật gân cho báo chí.

Chú thích :
[1] Cromwell – chính khách Anh (1485 – 1540) bộ trưởng tài chính Anh (1533) thư ký của vua Henri VIII (1534) người gây dựng lên phong trào cải cách Anh và đã bị chặt đầu.



+++++++++++++++++++++++++++++++


Chương XXII

Người nào dùng phần lớn thời gian của mình để đọc sách hay viết sách, dĩ nhiên đặc biệt chú ý đến các đống sách khi đi ngang qua chúng. Họ chẳng bao giờ qua một quầy sách, một hiệu sách, hoặc một giá sách trong phòng ngủ mà không đọc lấy một đầu đề sách, và nếu như họ đứng trước một thư viện lạ, chủ nhà khỏi phải lo làm gì để tiêu khiển cho họ. Việc xếp lại những bộ sách để lung tung vào cùng với nhau, dựng thẳng lại cái cuốn sách bị cô đầy tớ phủi bụi để ngổn ngang chồng chất lên nhau, đối với họ là một công việc đầy vui sướng. Tôi cũng sung sướng được làm những việc đó, và một lần vô tình, mở một trang sách khổ tám hồi thế kỷ mười tám ra "xem nó là cái gì" và sau năm phút kết luận rằng đáng để chui vào một chỗ mà đọc, tôi đang ở vào một buổi trưa tháng Tám ẩm ướt ở toà nhà Betton court…
"Bạn mở đầu theo kiểu Victoria quá nhỉ?" Tôi bảo "Về sau vẫn tiếp tục như thế ư?"
"Bạn làm ơn nhớ cho" bạn tôi nói, nhìn tôi qua cặp kính "Tôi là một người thuộc thời đại Victoria từ lúc mới sanh và qua cả quá trình giáo dục, một cái cây Victoria không phải vô cớ được mong đợi sinh ra quả Victoria. Hơn nữa, bạn nên nhớ là một lượng lớn những sách thổ tả ấy – nhưng lại hay và đầy suy tưởng – toàn là viết về thời Victoria hết" "Này nhé" bạn tôi đặt mấy tờ bản thảo lên đùi "bài viết The Stricken Years - Những năm tháng ấn tượng mạnh – này chẳng hạn, trong phụ trương văn học của tờ Thời Báo, viết khá đấy chứ, phải không? Dĩ nhiên là vậy rồi, nhưng, ồ, bạn đưa hộ đây cho tôi, ngay trên bàn cạnh chỗ bạn ấy."
"Tôi cứ tưởng bạn đọc cho tôi nghe những thử loại viết chứ" tôi ngồi im bất động "nhưng, dĩ nhiên…"
"Vâng, tôi biết, tôi sẽ đọc ngay đây, nhưng rồi sau đó sẽ chỉ cho bạn thấy tôi muốn nói gì. Tuy vậy," anh tôi nhặt mấy tờ giấy lên rồi đeo kính vào.
…Ở tại Betton Court này, nơi mà từ nhiều thế hệ trước, hai thư viện của hai nhà ở nông thôn bị trộn lẫn vào nhau, chẳng con cháu nào chịu lọc ra hoặc bỏ đi những quyển có hai bản. Tôi không có ý định nêu ra những sách quý hiếm, sách khổ lớn của Shakespeare đóng thành từng bộ khảo luận rất khéo léo, thận trọng hoặc đại loại như vậy mà chỉ muốn nêu ra một trắc nghiệm xảy đến cho tôi trong quá trình tìm tòi – một trải nghiệm khó giải thích cũng chẳng ăn nhập vào lịch trình cuộc sống hàng ngày của tôi chút nào.


Như đã nói ở trên, tôi đang ở vào một buổi trưa tháng tám ẩm ướt, ấm áp và nhiều gió. Bên ngoài cửa sổ cây cối lay động, khóc than. Qua khe các cây cao là đồng quê xanh lục và vàng (ngôi nhà đứng trên sườn đồi) xa hơn là những ngọn đồi xanh bị màn mưa che phủ. Trên cao là những giải mây thấp nằm im lìm xem ra khó lòng di chuyển về phía Tây Bắc. Tôi dừng công việc của mình lại – nếu các bạn có thể gọi đó là công việc – vài phút ra đứng bên cửa sổ nhìn cảnh vật. Còn có mái rơm nhà ươm cây bên phải, mưa từ đó tuôn xuống, phía sau nó là tháp chuông nhà thờ vươn cao lên bầu trời. Cảnh trí đó giúp tôi tiếp tục công việc đang làm. Còn lâu trời mới hửng lên được. Thế là tôi trở lại giá sách, nhắc ra một bộ tám chín quyển, đề chữ "Luận văn ngắn" đem ra bàn xem cho kỹ.
Đa số dưới thời nữ hoàng Anne. Nào là Thời hoà bình vừa qua, Thời chiến tranh vừa qua, Cách cư xử của quân Đồng minh, cũng có cả « Những bức thư gửi người họp hội nghị tôn giáo », Những bài giảng đạo ở nhà thờ St Michael Queenhithe, Điều tra về vụ buộc tội của ngài giáo chủ Winchester (có lẽ Winton thì đúng hơn) đối với giới tăng lữ của mình v..v..toàn những việc rất sinh động hồi ấy, với lối văn cổ thật sắc sảo, chua cay khiến tôi mê mẩn ngồi đọc trong chiếc ghế bành bên cạnh cửa sổ và mất nhiều thì giờ về chúng hơn dự định. Thời tiết ngày hôm ấy cũng làm tôi khá mệt. Đồng hồ nhà thờ điểm bốn giờ, thực sự mới có bốn giờ, hồi năm 1889 thắp sáng ban ngày không cần tiết kiệm lắm.
Thế là tôi tiếp tục yên vị với công việc. Thoạt đầu lướt mắt qua mấy cuốn sách nhỏ về chiến tranh, sau đó vui thích nhặt ra mấy quyển của Swift mà ông ta viết khá hay. Tuy nhiên mấy cuốn sách nhỏ về chiến tranh muốn đọc thì cần hiểu biết nhiều hơn về địa lý nước Hoà Lan. Tôi quay lại vấn đề nhà thờ, đọc một số trang mà linh mục trưởng nhà thờ Canterbury có nói với Hội nâng cao kiến thức Cơ đốc giáo nhân cuộc họp kỷ niệm ngày thành lập năm 1711. Giờ đến một lá thư của một tu sĩ được hưởng lộc Thánh thuộc giáo khu của giáo chủ C., tôi đã bắt đầu thấy uể oải, thành ra nhìn vào câu sau đây suốt một lúc lâu không khỏi ngạc nhiên:
"Sự lợi dụng này (tôi nghĩ gọi như vậy là đúng) là điều tôi tin chắc ngài sẽ (nếu như ngài biết) hết sức cố gắng giải quyết cho xong. Nhưng tôi tin là ngài không biết gì hơn về nó ngoại trừ câu sau (lời của bài hát dân gian)
"Ai đi dạo ở Betton Wood .
Cũng biết rằng vì sao nó cứ đi, cứ kêu thét lên hoài" .


"Ai đi dạo ở Betton Wood .
Cũng biết rằng vì sao nó cứ đi, cứ kêu thét lên hoài" .
Tôi ngồi thẳng dậy trong chiếc ghế bành, ngón tay lần từng chữ từng dòng để tin chắc mình đã đọc đúng. Không sai chút nào. Không còn gì tiếp theo nữa. Đoạn sau, đề tài thay đổi đột ngột "Nhưng tôi đã nói đủ về mục này rồi" những chữ mở đầu đoạn đó là như vậy. Cả cái tên của vị tu sĩ cũng không được nhắc đến, chỉ có hai chữ viết tắt đầu tên họ và thư này được in ở London.
Các bí ẩn ở đây thuộc loại chẳng khiến mọi người quan tâm bao nhiêu. Đối với tôi, người đã khua khoắng khá nhiều trong các tác phẩm dân dã thì lại đặc biệt kích thích. Tôi quyết định phải tìm cho ra câu chuyện ẩn đàng sau, ít nhất cũng có cái may ở một điểm, tức là lẽ ra đọc những dòng chữ này ở tận một thư viện đại học xa xôi, thì tôi lại đang ở đúng Betton, chính tại hiện trường.
Đồng hồ nhà thờ điểm năm giờ, sau đó là một tiếng cồng đơn độc. Tôi hiểu giờ dùng trà đã đến, bèn đứng lên theo tiếng mời gọi. Chỉ có tôi và chủ toà nhà ở nhà. Anh bước vào ngay sau đó, người ướt sũng sau cuộc đi thăm đất đai cho biết nhiều tin tức mới trong vùng. Mãi tôi mới hỏi được một câu là trong giáo khu có nơi nào tên là Betton Wood không.
"Betton Wood" bạn tôi đáp "Cách đây chừng một dặm, đúng trên đỉnh đồi Betton Hill, cha tôi đã cho chặt hết cây, đánh hết gốc sồi rậm rịt đi vì cho rằng trồng ngũ cốc lợi hơn. Nhưng anh hỏi Betton Wood làm gì?"
"Bởi vì" tôi trả lời "tôi vừa đọc một quyển sách nhỏ rất xưa trong đó có hai dòng về bài dân ca nói đến nó, qua đó thấy như thể bắt nguồn từ một câu chuyện nào đó. Thế nào chẳng có người biết cái gì đó nhiều hơn là cai câu "Ai đi dạo ở Betton Wood, cũng biết rằng vì sao nó cứ đi và cứ kêu thét lên hoài."
"Trời ơi!" Philipson nói "Tôi không hiểu có phải là… Để tôi hỏi ông già Michell." Anh ta lẩm bẩm một mình cái gì không biết, vừa uống thêm trà vừa ra dáng nghĩ ngợi.
"Có phải là…thế nào?" Tôi hỏi.
"Tôi định nói thế này, không biết có phải vì thế mà cha tôi cho đánh hết gốc sồi ở khu rừng nhỏ Betton Wood ấy không? Tuy tôi vừa nói mục đích để có thêm đất trồng trọt nhưng lý do thực thì tôi không biết. Tôi không tin rằng cụ phá rừng chỉ vì vậy. Chỗ ấy bây giờ chỉ là mảnh đất gồ ghề làm đồng cỏ chăn nuôi thôi mà. Nhưng ít nhất vẫn còn một ông già có thể nhớ lại điều gì đó – tức là lão Michell." Anh bạn tôi xem đồng hồ "Để tôi xuống tìm lão hỏi xem thế nào. Tôi không đem anh đi cùng thì hơn. Chuyện kỳ quặc ít khi lão nói ra trước một người lạ lắm"
"Ừ, anh nhớ cho kỹ từng lời lão kể nhé. Còn tôi đợi trời hửng tôi sẽ đi ra ngoài, nếu không, thì lại tiếp tục đọc sách vậy."


Trời hửng, ít nhất cũng khiến tôi nghĩ tới việc đi tới ngọn đồi gần nhất ngắm cảnh nơi đây. Tôi không biết gì về địa thế cả, đây là lần đầu tôi đến thăm Philipson mà lại là ngày đầu tiên. Thế là tôi xuống vườn rồi băng qua các bụi cây ẩm ướt, tâm trí thanh thản, và chẳng hiểu cơn bốc đồng mơ hồ nào mà tại sao lại mơ hồ như thế cơ chứ, đã hối thúc tôi rẽ sang trái khi đến chỗ con đường nhỏ phân đôi. Kết quả là sau chừng mười phút đi mò mẫm qua một dãy lều của những người đi săn có nước mưa đang nhỏ giọt và những cây liễu, cây thủy lạp, tôi đối mặt với một cổng vòm bằng đá kiểu Gô tích bắt vào bức tường vây quanh toàn bộ địa sản của chủ nhà. Cánh cửa có khóa lò xo. Tôi cẩn thận để ké cửa sau khi đi qua để ra đường. Sang bên kia đường, tôi đi vào một con đường nhỏ hai bên có hàng rào cây dẫn lên phía trên, tôi cứ thong dong đi theo chẳng nhỏ đó khoảng nửa dẳm thì ra đến cánh đồng. Đây là một vị trí thuận lợi cho tôi nhìn được toàn cảnh toà nhà, ngôi làng và cảnh vật xung quanh. Dựa mình vào một cái cổng, tôi chăm chú nhìn sang phía Tây rồi nhìn xuống quang cảnh dưới chân.
Tôi nghĩ hẳn tất cả chúng ta đều biết những phong cảnh – không hiểu là của Birket Foster hay còn sớm hơn nữa – dưới hình thức tranh khắc gỗ trang trí các quyển thơ nằm trên bàn các phòng khách của cha ông chúng ta, những quyển mà bìa là "vải nghệ thuật, đóng gáy rập nổi chữ vàng" – câu này cực kỳ đúng. Phải thú thật tôi chiêm ngưỡng những thứ này, đặc biệt cảnh người nông dân tựa vào hàng rào đứng ngắm nhìn tháp chuông nhà thờ làng mình – từ dưới chân một quả đồi – có cây cổ thụ bọc quanh, rồi một cánh đồng phì nhiêu cắt ngang cắt dọc bởi các hàng rào cây, xa xa quanh cánh đồng là những ngọn đồi mà đằng sau chúng vầng mặt trời của ban ngày đang lặn xuống (hay đang mọc lên), giữa những gợn mây sáng chói vì ánh nắng tắt dần (hay đang dâng lên). Đó là những từ ngữ mà tôi dùng để diễn đạt ở chỗ này, tôi cho là thích hợp nhất với những bức tranh hiện ra trong óc. Và nếu như có điều kiện, tôi rất muốn được đưa vào Vale, Grove Cot và Flood. Dù thế nào thì thế, đối với tôi chúng thật đẹp, những quang cảnh ấy. Và lúc này đây chính là một quang cảnh như vậy đang ở trước mắt tôi, cứ như thể nó đi thẳng từ quyển thơ "Những hạt ngọc quý của bài hát thiêng liêng, do một phu nhân tuyển chọn" được Milliant Graves tặng cho bạn thân là Eleanor Philpson năm 1859 làm món quà sinh nhật. Nhưng ngay lúc đó, bỗng nhiên trong người tôi nhói lên một cái. Một tiếng run rẩy trong tai bên phải xuyên buốt lên đầu tôi như một nốt nhạc chói tai, như tiếng thét của một con dơi, chỉ khác là to gấp mười lần – một thứ tiếng nó làm người ta thắc mắc không hiểu trong não mình có vấn đề gì không. Tôi ngừng thở, bịt tai lại, người tôi run lên. Hệ tuần hoàn của mình có vấn đề rồi! Cứ như thế một hai phút. Sau đó tôi trở về nhà. Tuy nhiên, còn cố ghi lại hình ảnh quang cảnh trước mắt thật sâu vào trong tâm trí. Chỉ có điều quang cảnh lúc này không còn thấy như lúc trước nữa. Mặt trời đã khuất sau đồi, ánh sáng đã tàn trên cánh đồng, và khi trên tháp chuông nhà thờ đồng hồ điểm bảy tiếng, tôi không còn nghĩ đến những giờ khắc êm dịu của buổi chiều và mùi hương của hoa cỏ, của rừng cây trong không khí chiều tà nữa. Tôi cũng không nghĩ rằng có người nào đó trong trang trại cách đây một, hai dặm có thể nói "Chuông nhà thờ đêm nay ở Betton này sao mà trong trẻo sau cơn mưa đến thế!" Thay vào đó, hình ảnh những làn bụi với những con nhện bò ra, những con cú hoang đậu trên tháp chuông, những ngôi mộ bị lãng quên với những quan tài hoặc xương xẩu ghê rợn chôn bên dưới, vào lúc "thời gian" trôi như bay đã đem theo tất cả đời tôi. Đúng lúc đó, từ tai trái của tôi – gần đến mức như môi ai đó ở cách đầu tôi chỉ vài phân – tiếng đáng sợ kia lại thét choé lên.

thay đổi nội dung bởi: APOLONG, 31-03-2009 lúc 08:29 PM. Lý do: Gộp 2 bài gần nhau
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #24  
Cũ 31-03-2009, 08:23 PM
APOLONG's Avatar
APOLONG APOLONG is offline
Điều Hành Viên
 
Tham gia: 14/11/2008
Họ và tên: Apolong
Bài viết: 677
Xã: Tình khác
Gửi tin nhắn qua Yahoo chát tới APOLONG
Default Trả lời : [Truyện Ma Kinh Dị] - Giếng Thở Than - [+16]

Đến bây giờ thì không thể nhầm được nữa. Tiếng kêu đó là từ bên ngoài. "Không phải ngôn ngữ, chỉ là tiếng kêu", ý tưởng này chợt loé lên trong óc tôi. Nó sởn người hơn tất cả những thứ tiếng tôi đã nghe thấy từ trước đến nay, trong đó không thể hiện một xúc cảm nào và có lẽ không có chút trí tuệ nào. Tất cả tác dụng của nó chỉ là lấy đi hết thảy mọi dấu vết, mọi khả năng, có niềm vui, làm cho người ta không thể đứng ở nơi này lâu hơn một chút nào nữa. Dĩ nhiên không nhìn thấy gì cả nhưng tôi tin chắc nếu chờ thêm ít phút nữa hẳn cái tiếng kêu đó sẽ lại đập vào tai tôi không ngừng, vô mục đích, và làm sao tôi có thể chịu đựng nổi nó một lần thứ ba? Tôi vội ra con đường nhỏ, xuống đồi. Đến cánh cổng vòm nơi bức tường, tôi đứng sững lại. Liệu ta có bị lạc không trong những lối đi ẩm ướt mà lúc này chỉ càng ẩm hơn và tối thêm? Không, và tôi phải tự thừa nhận với mình tôi đâm ra sợ hãi. Quá bị chói tai vì tiếng kêu trên đồi, thần kinh tôi hoảng loạn lên, giờ đây có lẽ chỉ một tiếng chim trên cành hay tiếng con thỏ chạy trong bụi cũng làm tôi giật thót mình. Tôi cứ theo con đường dọc theo bức tường, và thấy sung sướng khi tới căn nhà của người gác công viên để vào cổng, vừa vặn thấy Philipson từ làng về.
"Anh đi đâu về vậy?" Anh ta hỏi.
"Tôi đi theo con đường nhỏ đối diện với cổng vòm của bức tường ấy mà lên đồi đi dạo một chút."
"Ồ, vậy ư? Thế ra anh lên gần đến Betton Wood trước kia rồi còn gì. Nếu như anh cứ theo đó mà lên đỉnh đồi rồi đi ra cánh đồng thì chính là Betton Wood ngày xưa đấy."
Độc giả có tin tôi không? Lần đầu tiên tôi rút ra ngay kết luận. Có nên nói ngay với Philipson cái gì đã xảy ra cho tôi không? Tôi im. Tôi chưa có trải nghiệm nào với những thứ mà người ta gọi là siêu tự nhiên, hoặc bất bình thường, siêu vật chất, tuy nhiên, mặc dù biết rằng trước sau rồi cũng phải nói ra, tôi chưa muốn nói ra vội, tôi đã đọc qua nhiều lần ở đâu đó rằng làm như vậy là thường tình.
Tôi chỉ nói "Thế anh có gặp ông già đó không?"
"Già Mitchell ấy ư? Có chứ. Nghe được câu chuyện ông ta kể rồi. Để sau cơm tối đã. Chuyện khá kỳ quặc."
Thế là khi đã yên vị sau bữa cơm tối, anh bắt đầu kể lại, theo lời anh nói, một cách trung thành, cuộc đối thoại giữa hai người. Mitchell, gần tám mươi tuổi, ngồi trong chiếc ghế có chỗ tì tay. Cô con gái đã lấy chồng của cụ đi ra đi vào, chuẩn bị pha trà.
Sau khi chào hỏi nhau
"Mitchell, tôi muốn cụ kể tôi nghe cái gì đó về khu rừng được không?"
"Khu rừng nào, ông chủ Reginald?"
"Betton Wood ấy mà. Cụ còn nhớ chứ?"
Mitchell từ từ giơ ngón tay trỏ lên như buộc tội, "Chính là cha ông đã cho phá rừng Betton Wood chứ còn ai? Tôi chỉ có thể nói được thế thôi."
"Cái đó thì tôi biết rồi. Cụ chẳng cần phải nhìn tôi như thể đó là lỗi của tôi vậy."
"Lỗi của ông? Tôi nói cha ông, từ trước thời của ông cơ mà."
"Vâng, nhưng theo như tôi biết thì chính cha của cụ đã xui cha tôi làm vậy, và tôi muốn biết tại sao."
Mitchell trông có vẻ khoái chí "Phải, cha tôi chuyên trông coi rừng cho cụ nhà, cả ông nội tôi cũng vậy, và tất nhiên cha tôi phải biết công việc chứ. Và một khi cụ có lời khuyên ấy, tất nhiên là có lý do, phải không ạ?"
"Dĩ nhiên, chính là tôi muốn cụ kể cho tôi nghe lý do ấy."
"Ông chủ Reginald ạ, tại sao ông nghĩ tôi biết những lý do của cha tôi từ hàng bao nhiêu năm về trước?"
"Vâng, tôi hiểu đã lâu quá rồi, giả sử cụ có biết, chắc cụ đã quên. Tôi đành phải đi hỏi cụ Ellis vậy."
Điều này gây ra tác động mà tôi mong muốn.
"Lão Ellis!" cụ Mitchell lầu bầu "Lần đầu tiên nghe có người nói lão ấy được việc. Tôi cứ tưởng chính ông biết rõ điều đó hơn ai hết, ông chủ Reginald ạ. Chẳng lẽ ông cho rằng lão Ellis biết về Betton Wook hơn là tôi? Vì sao lão được đặt trước tôi nhỉ? Tôi muốn biết đấy. Cha lão có phụ trách về rừng không? Ông cụ nhà ấy chỉ đi cày, biết gì mà kể, chẳng ai biết gì mà kể!"


"Thì bởi vậy, Mitchell, nhưng cụ biết mà không bảo tôi thì tôi phải tìm người khác chứ sao, để mà biết được chuyện này, lão Ellis cũng ở đây lâu gần bằng cụ rồi còn gì!"
"Còn kém tôi mười tám tháng! Với lại ai bảo ông là tôi sẽ không kể cho ông nghe về Betton Wood? Tôi có phản đối đâu? Chẳng qua nó chỉ là loại chuyện khôi hài không nên lưu truyền trong cả giáo khu. Con ,Lizzie, con vào bếp một chút để cha với ông chủ nói chuyện riêng với nhau. Nhưng ông chủ Reginald ạ, tôi muốn biết vì sao ông đặt câu hỏi này?"
"Ồ, chẳng là tôi vừa được nghe nói có hai câu vè gì đó nói về người nào đi dạo ở Betton Wood thì làm sao đấy…Tôi cho là có liên quan đến việc chặt bỏ rừng. Chỉ có thế thôi."
"Phải, ông nghĩ đúng, ông chủ Reginald, dù sao thì ông cũng biết đến điều đó rồi cho nên ông có quyền nghe tôi kể hơn bất cứ ai ở trong giáo khu này, hãy để lão Ellis yên. Nó là thế này. Con đường ngắn nhất đi đến trang trại của Allen là phải qua rừng. Khi bọn tôi còn nhỏ mẹ tôi phải đến trang trại kiếm lấy một phần tư lít sữa vài lần trong tuần. Trại Allen lúc ấy dưới quyền cha ông. Cha ông là người tốt. Gia đình ai có con nhỏ phải nuôi, cụ cho phép lấy sữa nhiều lần một tuần. Nhưng thôi, giờ ông không cần biết việc đó làm gì. Thỉnh thoảng mẹ tôi làm việc về muộn, phải đi tắt qua khu rừng để đến trại, mẹ tôi không thích chút nào, vì người ta cứ xì xào những chuyện như ông vừa nói. Mỗi lần qua đó về, trông mẹ tôi nhược cả người. cha mẹ tôi bảo nhau "Nhưng mà Emma, có tổn hại gì đến em đâu?" cha tôi nói, còn mẹ tôi trả lời "George, anh chẳng hiểu gì cả, nó xuyên vào óc em, em cứ mê mục cả người không còn biết mình đang ở đâu nữa. Hôm nào lúc hoàng hôn anh qua đấy mà xem. Xưa nay anh chỉ đi qua rừng lúc ban ngày, ban mặt, đúng không?" "Dĩ nhiên, anh có điên đâu?" họ cứ thế lời qua tiếng lại với nhau. Thời gian trôi qua, mẹ tôi kiệt lực vì, ông biết không, bao giờ cũng tới chiều mới đi lấy sữa được, cũng không cho bọn trẻ con chúng tôi đi lấy sữa thay, sợ chúng tôi hoảng người, mà bản thân bà cũng không kể gì với chúng tôi hết. "Không, riêng tôi đã đủ khổ rồi, không muốn mai đi qua đâu, cũng không muốn ai nghe nói về nó. Nhưng có lần tôi nhớ nghe bà nói "Lần đầu tiên, tôi thấy tiếng loạt soạt trong bụi cây, sau đó nó tiến lại gần tôi, ở ngay đằng sau tôi rất nhanh, tiếp theo là tiếng kêu thét lên xuyên từ tai bên nọ sang tai bên kia. Những lần sau, qua lại nhiều nên rồi, tôi thường nghe thấy hai lần như thế, may thay chưa lần nào được nghe tiếng thứ ba." Khi tôi hỏi bà, và tôi nói "Cứ như có người đi đi lại lại hả mẹ?" thì bà bảo "Đúng thế, không hiểu nó muốn gì?" Tôi lại hỏi "Đàn bà hả mẹ?" Thì mẹ tôi lại bảo "Mẹ nghe đúng tiếng đàn bà."
"Dù sao thì cuối cùng cha tôi cũng nói với cụ nhà ông bảo khu rừng này chẳng phải rừng tốt. "Phải có cái trò gì ở đó cho nên mới không có con chim nào làm tổ nơi đó, chẳng lợi gì cho ông đâu. Nói chuyện một hồi, cụ nhà đến tận nhà gặp mẹ tôi, cụ bảo mẹ tôi đâu phải người ngớ ngẩn, hoang mang về việc không đâu, và cụ quyết định khu rừng đó hoàn toàn có vấn đề, cụ hỏi cả những người sống xung quanh đó, sau cùng cụ viết vào giấy tờ gì đó mà ông có thể đọc được ở nhà ấy. Rồi cụ cho chặt cây đốn gốc, tất cả đều được làm ban ngày, không bao giờ sau ba giờ chiều, tôi nhớ như vậy."


"Họ có tìm được cái gì giải thích nguyên nhân không? Xương người hai đại loại như vậy?"
"Hoàn toàn không, ông chủ Regionald ạ, chỉ có vết tích một hàng rào và một cái rãnh nằm dọc ở giữa rừng, nơi hàng rào cây táo gai bây giờ ấy. Giả sử có ai đó đặt cái gì ở đó tất người ta phải tìm ra chứ. Nhưng xem ra chặt bỏ cây rừng cũng chẳng có tác dụng bao nhiêu. Người ở đây vẫn chẳng ai ưa cái khu vực ấy."
"Đó là tất cả những gì tôi moi được từ Metchelle." Philipson nói "Giải thích gì thì giải thích, chứ tôi thấy còn nhiều điều chưa hiểu. Tôi phải cố tìm, xem còn thấy giấy tờ gì do cha tôi viết không."
"Sao ông cụ không nói gì với anh về chuyện này?"
"Cụ mất từ lúc tôi chưa đến tuổi đi học, tôi cho rằng cụ không muốn làm kinh sợ trẻ con từ những chuyện như vậy. Tôi còn nhớ một lần chạy chơi trên con đường nhỏ dẫn lên Wood vào một buổi chiều muộn bị bà vú phát một cái. Tuy nhiên ban ngày nếu chúng tôi muốn lên Wood chơi thì tha hồ, có điều chúng tôi không muốn lên đó thôi."
"Hừm!" tôi nói "Anh có nghĩ sẽ tìm được mảnh giấy cha anh viết không?"
"Có. Có lẽ ngay ở cái tủ sau lưng anh. Có một gói hoặc hai, buộc lại để riêng một chỗ, nhiều lần tôi đã nhìn thấy, ở ngoài phong bì có chữ Betton Wood. Nhưng vì nay không còn Betton Wood nữa nên tôi nghĩ chẳng mất công mở ra làm gì, thành ra thôi. Giờ chúng ta mở ra xem."
"Trước khi anh làm việc đó" tôi nói (tuy vẫn còn miễn cưỡng, nhưng tôi nghĩ đã đến lúc phải thổ lộ) "Tôi muốn nói với anh chính lời cụ Mitchell nói, rằng chặt rừng đi không giải quyết được gì." và tôi thuật lại những điều đã kể các bạn nghe ở trên. Philipson rất quan tâm, bảo "Vẫn còn kia ư? Lạ thật đấy! Này, hay là anh ra đấy cùng với tôi ngay bây giờ xem sự thể thế nào?"
"Chịu thôi" tôi nói "anh đã có cái cảm giác của tôi lúc nãy thì anh sẵn sàng đi bộ mười dặm về hướng ngược lại. Đừng nói đến nó nữa. Ta mở phong bì ra xem cha anh viết gì thì hơn."
Bạn tôi làm như vậy và đọc cho tôi nghe ba bốn trang trên có những đoạn ghi nhanh. Đầu trang là phương châm trong quyển Glenfinlas của Scott, theo tôi rất khéo chọn:
Là nơi mà, người ta nói, con ma la hét vẫn đi dạo..
Sau đó đến ghi chép lời thuật lại của mẹ Mitchell, chỉ xin trích ra đoạn sau đây "Tôi hỏi bà ta có bao giờ trông thấy vật gì đó mà bà cho là phát ra tiếng kêu không. Bà nhiều lần bảo tôi rằng có một lần, vào chiều tối thẫm nhất, đi qua rừng, bà cố hết sức nhìn lại đàng sau khi nghe tiếng lao xao trong bụi cây, bà thấy hình như có một người mặc quần áo rách tơi tả, hai tay giơ ra phía trước, đi tới rất nhanh, thế là bà chạy thục mạng leo qua hàng rào toạc cả chiếc áo dài ra thành từng mảnh."


Ông cụ còn gặp thêm hai người rất ngượng nghịu không dám nói ra vì nghĩ rằng nói sẽ không giữ kín chuyện của giáo khu. Tuy nhiên, một bà trong đó, tên là bà Emma Frost, đã được thuyết phục để nhắc lại những điều mà mẹ bà đã bảo bà "Họ nói có một phu nhân có chức tước hẳn hoi, lấy chồng hai lần, chồng trước tên là Brown, hoặc Bryan gì đó (Philipson nói "Quả trước khi gia đình tôi đến đầy có người tên là Bryan thực") bà này đã nhấc cột mốc đất đai của người láng giềng đi. Thế là ít ra bà ta cũng chiếm được đồng cỏ tốt nhất ở giáo khu Betton vốn thuộc quyền hai đứa trẻ con nhưng chẳng ai bênh vực đứng lên nói cho chúng cả. Nhiều năm về sau, bà ta càng ngày càng tệ, đã làm giả giấy tờ chiếm nhiều ngàn bảng ở London. Cuối cùng luật pháp đã chứng minh đấy là giấy tờ giả, bà bị xét xử tội tử hình nhưng trốn tránh được. Tuy nhiên ai tránh nổi lời nguyền rủa dội lên đầu mình về vụ di chuyển cột mốc địa sản của láng giềng, do đó chúng tôi cho rằng bà ta chưa thể ra khỏi Betton trước khi có ai đó đưa cột mốc trở về chỗ cũ."
Cuối trang giấy ghi lại hiệu quả của chuyện này "Tôi rất tiếc không tìm ra manh mối nào về chủ cũ của cánh đồng tiếp vào Wood. Tôi không ngần ngại mà nói rằng nếu như tôi có thể tìm ra người đại diện của họ, tôi sẽ làm hết sức để đền bù cho họ những điều lầm lạc mà người khác đã gây ra cho họ từ nhiều năm. Bởi vì rõ ràng Wood bị khuấy động một cách rất kỳ lạ, theo như những người sống quanh đó kể lại. Lúc này tôi hoàn toàn không hiểu ranh giới đích thực của họ là đến chỗ nào, đối với những người chủ chính đáng tôi chỉ còn biết trích ra phần lợi tức thu nhập từ phần này của địa sản tôi, theo tục lệ luật pháp của tôi, đem nhập món tiền tương đương sản lợi hàng năm của năm mẫu đất, đóng góp vào lợi nhuận chung của giáo khu và để làm việc thiện. Tôi hy vọng sẽ kế tục tôi cứ theo như thế mà thực hiện."
Đó là giấy tờ ông Philipson cha để lại. Những người cũng như tôi, từng được đọc các phiên xử án của nhà nước còn đi xa hơn để rọi thêm ánh sáng vào vụ này. Họ nhớ lại khoảng năm 1678 đến 1684, phu nhân Ivy, trước kia là Theodosia Bryan, từng hết là nguyên đơn đứng ra kiện lại trở thành bên bị kiện trong một loạt các vụ kiện trong đó bà đòi tu sĩ trưởng nhà thờ St Paul cùng Tăng hội ở đó một dải đất khá rộng và đáng giá ở vùng Shadwell. Họ cũng cho biết cuối cùng vụ xử kết thúc ra sao, quan toà lúc ấy là L.C.Jeffreys, đã chứng tỏ đầy đủ rằng các chứng thư chuyển nhượng đều là giả do bà ta ra lệnh thực hiện. Sau đó bà ta biến mất, biến mất hẳn, không chuyên gia nào có thể nói được bà ta đã trở nên như thế nào.
Câu chuyện tôi được nghe kể liệu có hàm ý bà vẫn được nhắc tới tại hiện trường của những chiến công thắng lợi ban đầu?

Bạn tôi gấp giấy tờ lại nói "Đây là một ghi chép rất trung thực về một trải nghiệm kỳ lạ nhất của tôi. Bây giờ…"
Nhưng tôi còn nhiều câu để hỏi anh, thí dụ như, người bạn của anh có tìm được người chủ đích thực của mảnh đất đó không, anh ta đã làm gì với cái hàng rào, liệu bây giờ còn ai nghe thấy tiếng kêu nữa không, quyển sách nhỏ kia chính xác có đầu đề là gì và in ra năm nào….Thành ra giờ ngủ đến rồi mà chúng tôi vẫn chưa có thì giờ trở lại bản phụ lục văn học của tờ Thời Báo.

Nhờ sự tìm kiếm của ngài John Fox, trong quyển sách về Vụ xử phu nhân Ivy, về sau chúng tôi biết được nhân vật nữ chính của chúng ta chết trong giường mình – có trời biết tại sao – và hoàn toàn thoát tội giả mạo giấy tờ mà rõ ràng là bà ta phải chịu trách nhiệm.



+++++++++++++++++++++++++++


Chương XXIII

Thật thú vị biết bao khi được ngồi trong một toa xe lửa hạng nhất vào ngày đầu tiên của kỳ nghỉ hè khá dài của mình nhởn nhơ đi qua suốt cả một vùng quê xa lạ nào đó, ga nào cũng dừng lại. Trên đầu gối bạn mở ra một tấm bản đồ, bạn nhận ra những làng mạc ở bên phải cũng như bên trái bạn nhờ những tháp chuông nhà thờ. Bạn say mê cái tĩnh lặng tuyệt đối của mỗi ga nơi tàu đỗ, nó chỉ bị phá vỡ bởi tiếng chân ai lạo xạo trên lớp sỏi. Nhất là vào buổi chiều sau khi mặt trời đã lặn. Và người khách lữ hành tôi đang hình dung trong tâm trí ấy chính là người đang nhàn tản ngồi trên một con tàu như thế vào một buổi chiều vẫn còn ánh nắng của nửa cuối tháng Sáu.
Ông ta đã đi sâu vào trong miền quê. Tôi không muốn tả chi tiết hơn, chỉ muốn nói, nếu ta chia nước Anh ra làm bốn phần, thì người bạn chúng ta ở vào góc Tây Nam.
Ông là một người đeo đuổi sự nghiệp hàn lâm, kỳ dạy học vừa xong, nay trên đường đến thăm một người bạn nhiều tuổi hơn. Họ gặp nhau lần đầu tại một nơi tìm hiểu thông tin ở trên tỉnh và thấy có cùng sở thích và thói quen, họ mến nhau, kết quả là nhà điền chủ nông thôn Rchards mời ông Fanshawe tới chơi.
Hành trình trên tàu hoả kết thúc lúc năm giờ. Một người phu khuân vác vui vẻ nói với Fanshawe là xe ra đón ông đã tới nhưng có việc phải đi xa hơn nửa dặm rồi sẽ quay lại, phiền ông chờ một chút. Tuy nhiên, người phu khuân vác lại nói "Vì ông mang theo xe đạp, ông có thể đạp đến toà nhà được. Cứ đi thẳng con đường này rồi rẽ trái – chỉ độ hơn hai dặm là tới. Tôi sẽ lo đưa hành lý của ông lên xe sau. Xin lỗi đã nói vậy, nhưng tôi cho là buổi chiều quê đẹp như thế này mà đi một đoạn xe đạp thì tuyệt, thời tiết đang khô ráo để phơi rơm rạ mà. Đây, cái vé xe đạp của ông đây rồi. Vâng, xin cám ơn ông. Đường đi thì không thể nhầm được…"
Quả nhiên, chỉ hai dặm là đến toà nhà, đoạn đường cần thiết để sau một ngày ngồi tàu xua tan được nỗi buồn ngủ và làm người ta khao khát dùng trà. Toà nhà vừa nhìn thấy đã cho người ta cảm giác một nơi nghỉ ngơi yên tĩnh sau bao buổi họp hành rồi tụ tập với các bạn đồng nghiệp. Không cổ kính quá cũng không mới quá. Tường trát vữa, cửa sổ có khung kính trượt, nhiều cây cổ thụ, thảm cỏ mượt mà. Đó là cảnh vật xuất hiện trước mắt Fanshawe, khi ông theo con đường lên nhà. Điền chủ Richards, một người đàn ông vạm vỡ trên sáu mươi tuổi đang chờ ông bên cổng, phấn khởi ra mặt.


"Trước hết hãy dùng trà đã", ông ta nói "hay anh muốn uống thứ gì kéo dài hơn? Không? Thôi được, trà đã dọn sẵn trong vườn. Lại đây, người nhà cất xe đạp cho anh sau. Vào một ngày như thế này bao giờ tôi cũng dùng trà dưới gốc chanh bên dòng suối."
Không ai muốn đòi hỏi một nơi nào hay hơn để dùng trà. Chiều giữa mùa hạ có bóng râm và hương chanh dưới gốc cây, trời mát, dòng suối cuồn cuộn chảy cách đó độ năm mét. Chẳng ai muốn đứng lên nữa. Khoảng sáu giờ thì ông Richards đứng dậy, gõ tàn thuốc lá khỏi tẩu và bảo "Này anh, trời khá mát mẻ hay ta đi dạo một chút , anh không phản đối chứ? Được, tôi đề nghị thế này nhé, ta băng qua công viên, lên đồi, từ đây nhìn được khắp vùng. Ta đem theo bản đồ, tôi sẽ chỉ cho anh các nơi ở đây, anh đi xe đạp cũng được, hay ta đi xe tùy anh thích vận động hay không. Nếu anh sẵn sàng, thì ta đi luôn, trở về khoảng tám giờ, thừa sức."
"Tôi sẵn sàng. Tôi thích cầm gậy. Anh có ống nhòm không? Ống nhòm của tôi tuần trước cho một người bạn mượn, anh ta giờ đi nơi nào chẳng rõ, đem theo nó luôn."
Ông Richards suy nghĩ "Tôi có đấy, nhưng không phải thứ tôi vẫn dùng, chẳng hiểu anh dùng có hợp không. Cổ lắm rồi, nặng gấp đôi ống nhòm bây giờ. Anh dùng thì dùng, tuy nhiên anh sẽ là người mang nó chứ không phải tôi. À này anh uống gì sau bữa tối nhỉ?"
Ông Fanshawe bảo là uống gì cũng được nhưng bị gạt đi thẳng thừng, cuối cùng trên đường ra sảnh họ đã thoả thuận xong, ông Fanshawe cầm lấy cây gậy của mình còn ông Richards sau khi cắn môi có vẻ suy nghĩ khá lung, mở ngăn kéo một chiếc bàn trong sảnh, lấy ra một cái chìa khóa đi tới một cái tủ sau tấm ngăn, mở ra, lấy một cái hộp trên ngăn tủ, đặt nó lên bàn. "Ống nhòm trong này" ông ta nói "muốn mở phải có thuật gì đó mà tôi quên mất. Anh thử xem." Ông Fanshawe đồng ý. Hộp không khóa, nhẵn, chắc và nặng, và có vẻ như muốn mở được phải ấn mạnh vào một chỗ nào đó. Ông tự nhủ "Có vẻ như phải ấn vào một góc nào đó, mà sao góc nó sắc nhọn thế không biết." Ông vội đưa ngón tay lên miệng sau khi thử dùng sức ấn vào một góc thấp.
"Sao thế?" Ông điền chủ hỏi.
"Còn sao nữa, cái hộp của Borgia này làm trầy cả da tay tôi, thật chết tiệt!" Fanshawe bảo. Ông kia khúc khích cười "Dù sao thì anh cũng mở được rồi còn gì."
"Phải, mở được rồi. Mấy khi tôi chịu mất một giọt máu vô ích. Đây ống nhòm đây, nặng thật đấy, như anh nói, nhưng tôi đủ sức mang."
"Nào, xong chưa?" vị điền chủ hỏi "Ta đi thôi. Qua vườn."


Thế là họ ra đến công viên, nơi này dốc lên đồi, ngọn đồi mà từ trên tàu, Fanshawe đã nhìn thấy bao quát quang cảnh cả một vùng. Đó là một ngọn đồi thuộc dãy đồi lớn hình đằng sau. Dọc đường, vị điền chủ, vốn thạo công việc đất đai, chỉ vào những điểm mà ông ta cho rằng – hoặc tưởng tượng – xưa kia, thời chiến, vốn là hào giao thông. "Còn đây" ông nói, chỉ vào một mảnh đất nhỏ tương đối bằng phẳng bao quanh là một vòng cây cao, "là villa thời Roman của Baxter."
"Baxter?" ông Fanshawe hỏi.
"Ồ tôi quên, anh chưa biết Baxter là ai. Chính là tay mà tôi mua lại cái ống nhòm này đấy. Tôi tin chính hắn làm ra nó. Vốn dĩ là thợ làm đồng hồ ở dưới làng, một tay sưu tầm đồ cổ có hạng. Cha tôi cho hắn tha hồ đào bới khắp nơi tuỳ thích, hắn mà tìm được cái gì đó thì cụ cho thêm một hai người đến đào giúp hắn. Hắn đào được vô khối thứ hay ra phết, khi hắn chết – khoảng mười, mười lăm năm trước đây – tôi mua cả đống thứ hắn để lại, đem cho bảo tàng của thị trấn. Chiếc kính ở trong số đó, tôi giữ lại. Anh nhìn mà xem, sẽ thấy một công trình tài tử. Tôi muốn nói cái ống nhòm ấy. Còn kính ở trong, dĩ nhiên không phải do hắn chế tạo."
"Phải, rõ ràng là công trình của một người thợ khéo biết làm nhiều thứ việc khác nhau. Nhưng tôi không hiểu hắn làm thế nào mà nó nặng thế! Thế Baxter tìm ra di tích một villa Roman hả?"
"Đúng đấy, đúng là một mặt lát bị lớp đất mặt phủ lên, nơi chúng ta đứng đây này. Lật nó lên thì quá vất vả và đã quá rõ ràng rồi, tuy nhiên những đồ gốm xinh xinh đào được ở đây đều là loại hay cả. Baxter quả là thiên tài. Hắn như có bản năng khác thường về việc này. Hắn rất đáng quý với những nhà khảo cổ. Có thời hắn đã phải đóng cửa hàng để lang thang khắp vùng, đánh dấu trên bản đồ những nơi cần đào – những nơi hắn đáng hơi thấy cái gì đó, hắn có một sổ tay ghi đầy về từng nơi một. Từ khi hắn chết, đa số những nơi đó đã được đào bới đem mẫu đi thử, toàn đồ cổ cả."
"Người đâu mà tốt thế nhỉ?" ông Fanshawe nói.
"Tốt?" Vị điền chủ nhảy dựng lên.
"Tức là có lợi cho nơi này chứ sao? Thế hắn ta là người xấu xa hay sao?"
"Tôi cũng không biết nữa" vị điền chủ nói, "nhưng tôi chỉ có thể nói nếu như hắn là người tốt, thì hắn là người không gặp may, người ta không ưa hắn, tôi cũng chẳng ưa gì hắn" ông ta nói thêm sau một lát.
"Ồ" Fanshawe có ý hỏi.
"Tôi không thích hắn, nhưng thôi, nói về Baxter thế đủ rồi, hơn nữa đoạn đường này khó đi nhất, tôi không muốn vừa đi vừa nói chuyện."
Quả thật người ta phát nóng khi phải leo sườn đồi trơn cỏ vào buổi chiều hôm ấy. "Tôi đã nói đưa anh đi đường tắt mà. Thà đừng theo đường này còn hơn. Tuy nhiên về tắm một cái là đâu vào đó ngay. Thôi, đến rồi đây. Và chỗ ngồi đây."


Một bụi cây linh sam Scotland lâu đời nằm trên đỉnh đồi và ngay cạnh đó là một chỗ ngồi rộng rãi chắc chắn từ đó nhìn bao quát được cảnh vật. Hai người ngồi xuống, lau mồ hôi trán lấy lại hơi thở.
"Nào," vị điền chủ nói ngay khi đã có thể nói liền một mạch "bây giờ anh bạn sử dụng ống nhòm được rồi đây. Nhưng trước hết ta hãy nhìn quang cảnh toàn thể đã. Trời ơi! Chưa bao giờ cảnh đẹp như hôm nay!"
Lúc này đây, tôi đang viết truyện này khi gió đông phần phật đập vào những ô cửa sổ tối om, cách một trăm mét biển cả đang ***g lộn, thành ra rất khó gợi ra cho các bạn cảm tưởng một buổi chiều tháng Sáu cũng như cảnh đẹp nước Anh mà vị điền chủ đang nói tới.
Qua một cánh đồng rộng bằng phẳng, họ nhìn thấy những rặng đồi lớn, vùng đất trên cao, chỗ xanh lục, chỗ phủ rừng – được ánh nắng chiếu vào vì mặt trời phía Tây mới đang lặn dần. Đồng ruộng rất phì nhiêu, mặt không ai nhìn thấy con sông chảy qua đâu. Nhiều bụi cây, vạt lúa mì xanh dờn, những hàng rào cây, cánh đồng cỏ chăn nuôi. Một làn khói đặc di chuyển chứng tỏ một đoàn tàu đang chạy qua. Mắt ta còn nhìn thấy những trang trại đỏ rực và những ngôi nhà màu xám, những mái nhà tranh rải rác, cuối cùng là toà nhà của địa sản được ngọn đồi ở dưới chân. Khói từ ống khói lò sưởi nhà bếp toả lên xanh ngắt, bay thẳng lên trời. Có mùi rơm rạ trong không khí và mùi hoa hồng dại trong bụi cây gần đó. Thời gian này đang là đỉnh cao của mùa hè.
Sau vài phút im lặng ngắm cảnh, vị điền chủ bắt đầu chỉ cho bạn những gì chủ yếu, đồi, thung lũng, thị trấn, làng mạc. "Bây giờ thì" ông ta nói "Anh lấy ống nhòm ra mà xem nhà thờ Fulnaker. Lấy đường ngắm qua cánh đồng lớn màu xanh kia, rồi cánh rừng bên trên đó, rồi trang trại trên cái gò nhỏ kia."
"Đây rồi, đây rồi" Fanshawe bảo "Tháp chuông đẹp thật!"
"Anh nhầm hướng rồi," vị điền chủ nói "ở đó làm gì có tháp chuông, theo như tôi còn nhớ, trừ phi anh nhìn thấy nhà thờ Oldbourne. Nếu anh gọi đó là một tháp chuông đẹp, e rằng anh quá dễ tính."
"Vâng, một tháp chuông đẹp lắm" Fanshawe nói, ống nhòm vẫn để trên mắt "dù là Oldbourne hay không phải là Oldbourne. Chỉ biết nó hẳn phải của một nhà thờ to, tôi trông cứ như thể tháp chuông chính – bốn góc còn bốn tháp nhọn khá lớn nữa và giữa chúng thêm bốn tháp nhọn nhỏ. Chắc tôi phải đi tới tận nơi quá. Có xa đây lắm không?"
"Oldbourne thì cách đây gần chín dặm" vị điền chủ nói, đã lâu lắm tôi chưa đến chỗ đó nhưng cũng chẳng nhớ tới chỗ đó mấy khi. Giờ thì tôi chỉ cho anh xem một thứ khác."
Fanshawe hạ ống nhòm xuống tuy nhiên vẫn nhìn về hướng Oldbourne. "Ồ, nhưng mà này" Ông nói " Sao mắt thường tôi chẳng nhìn thấy gì là thế nào? Anh định cho tôi xem cái gì vậy?"
"Phía trái có nhiều thứ hay hơn – mà lại dễ thấy. Anh có nhìn ra một cái gò đột ngột mọc lên, có rừng rậm ở trên đỉnh không? lấy đường ngắm là một cây cao trơ trọi trên chỏm cái đồi lớn nhất."
"Có có" Fanshawe nói "và tôi có thể dễ dàng nói với anh tên gọi của nó là gì."
"Là gì? Anh nói thử xem."
"Đồi Giá treo cổ - đó là câu trả lời."
"Sao anh lại đoán vậy?"
"Không phải đóan, vì có cái giá treo cổ giả với một người nộm lủng lẳng trên đó chứ sao."
"Làm gì có, ngoài thửa rừng!" Vị điền chủ sẵng giọng.


"Ngược lại" Fanshawe bảo "này nhé, trên đỉnh đồi cỏ mọc tràn lan, giữa là cái giá treo cổ giả, thoáng nhìn lần đầu như có cái gì trên đó, nhìn kỹ thì không thấy nữa."
"Vô lý! Vớ vẩn! Fanshawe, không có cái giá treo cổ với hình nộm nào trên cái gò đó đâu, chỉ là rừng, rừng mới trồng thôi, cách đây một năm chính tôi ở đó mà. Nào, đưa ống nhòm đây tôi xem, tuy tôi vẫn cho là mình không nhìn được gì." Sau một lát "Không, quả thực không thấy gì hết."
Trong khi đó Fanshawe nhìn kỹ như sàng lọc gò đất chỉ cách đó vài ba dặm. Kỳ lạ thực, không có ống nhòm thì chỉ thấy như một cửa rừng. Ông lại nhấc ống nhòm lên "Đây mới là điều kỳ quặc nhất! Cái giá treo cổ rõ rành rành, cả đồng cỏ nữa, thậm chí cả người đứng trên đó, nói đúng hơn là một cái xe bò với mấy người đàn ông đứng trên xe. Ấy nhưng bỏ kính ra thì chẳng nhìn thấy gì. Hay là tại chiều đang xuống? Để rồi ban ngày ban mặt có ánh nắng, tôi đến tận nơi xem sao."
"Anh nói là trông thấy nhiều người và một cái xe bò trên đồi hả?" vị điền chủ không tin "họ làm gì ở đó vào lúc ban ngày như thế này, ngay cả khi những cái cây cao đã được đốn hết không còn? Anh nói vô lý quá. Thử nhìn lại lần nữa xem nào!"
"Thì tôi nhìn thấy rõ ràng mà lại! Vâng, phải nói là còn lại một số cây, đa số đã được phát quang đi hết. Và giờ thì, lạy Chúa, có cái gì treo lủng lẳng ở giá treo cổ thật! Nhưng cái ống nhòm này nặng trĩu cả tay không thể giữ lâu được. Tuy nhiên, xin bảo đảm với anh chẳng có rừng rú gì cả. Và nếu anh chỉ đường trên bản đồ cho tôi, mai tôi sẽ đến tận nơi!"
Vị điền chủ ngẫm nghĩ rồi cuối cùng đứng dậy bảo "Được, tôi cho rằng đó là cách giải quyết tốt nhất. Giờ thì về thôi. Tắm rồi ăn cơm tối." Trên đường về ông ta hầu như không nói gì.
Họ qua vườn trở về nhà vào sảnh cất cây gậy vào chỗ cũ. Ở đây họ gặp ông quản gia Patten đã luống tuổi, rõ ràng đang có vẻ lo lắng. "Thưa ông chủ Henry, xin ông tha lỗi" ông ta nói ngay "nhưng có ai đến đây gây hại rồi ông chủ ạ. Vừa nói ông ta vừa chỉ tay vào cái hộp để mở trên bàn.
"Việc này tệ lắm sao Patten?" vị điền chỉ nói "Chẳng lẽ tôi không thể lấy cái ống nhòm của tôi ra cho một người bạn dùng sao? Ông không nhớ tôi đã mua bằng tiền của tôi ở cuộc bán đấu giá của Baxter sao?"
Patten cúi đầu, nhưng không được thuyết phục lắm "Vâng, thưa ông, chẳng lẽ ông không biết đó là gì? chẳng qua tôi cho rằng phải nói ra đây là bởi vì suốt từ ngày ông cất nó vào đấy ông đã lấy ra bao giờ đâu, với lại xin lỗi ông chủ, sau những gì đã xảy ra…" Giọng Patten ngày càng nhỏ dần, Fanshawe không còn nghe rõ nữa. Vị điền chủ trả lời vài ba tiếng gì đó rồi cười gằn, gọi Fanshawe lại, dẫn bạn lên phòng. Và tôi không thấy cần kể gì thêm về đêm hôm đó

thay đổi nội dung bởi: APOLONG, 31-03-2009 lúc 08:42 PM. Lý do: Gộp 2 bài gần nhau
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #25  
Cũ 31-03-2009, 08:34 PM
APOLONG's Avatar
APOLONG APOLONG is offline
Điều Hành Viên
 
Tham gia: 14/11/2008
Họ và tên: Apolong
Bài viết: 677
Xã: Tình khác
Gửi tin nhắn qua Yahoo chát tới APOLONG
Default Trả lời : [Truyện Ma Kinh Dị] - Giếng Thở Than - [+16]

Trừ ra, có lẽ, những cảm giác tràn ngập trong lòng Fanshawe lúc sớm tinh mơ về một điều gì đó đã tuôn chảy ra mà đáng lẽ không được phép. Nó đi vào giấc mơ của ông. Ông đi trong khu vườn không mấy quen thuộc, dừng lại trước một hòn non bộ làm bằng nhiều tảng đá chạm khắc và nhiều mảnh cửa sổ từ một nhà thờ, cùng mảnh vỡ của những bức tượng. Có điều, trí tò mò của ông bị kích thích là vì lẽ, nó giống như một đầu cột, trên chạm khắc nhiều hình thù. Ông cảm thấy muốn lôi nó ra, và lạ thay ông rất dễ dàng xê dịch các phiến đá che lấp nó sang một bên, và lôi cả khối đầu cột ấy ra. Trong khi làm như vậy thì đồng thời một cái nhẫn bằng thiếc rơi đáng keng một cái dưới chân ông. Ông nhặt lên đọc "Không được nhấc tảng đá này ra. Xin cảm ơn. J.Patten" Như thường thấy trong các giấc mơ, ông cho là huấn thị này vô cùng quan trọng, lo lắng ngày càng tăng, ông nhìn xem tảng đá ấy đã được nhấc ra chưa thì hoá ra nó đã được đem đi đâu không biết, lộ ra miệng một cái hang, ông cúi đầu xuống nhìn thì có cái gì động đậy bên dưới và rồi, ông hoảng hốt thấy một bàn tay thò lên – bàn tay phải, sạch sẽ, có cổ tay áo, ống tay áo hẳn hoi như kiểu một bàn tay giơ ra để bắt tay người khác. Ông tự hỏi, bỏ mặc nó liệu có thô lỗ quá không? Nhưng càng nhìn vào nó thì nó càng mọc lông lá ra, trông bẩn thỉu và gầy guộc đi, cuối cùng thay đổi vị trí, duỗi ra muốn nắm lấy cẳng chân ông. Ông vội vàng bỏ cả lịch sự, chạy bay chạy biến và kêu thét lên. Đến đây ông tỉnh dậy.
Đó là giấc mơ mà ông còn nhớ, bởi vì hình như còn nhiều giấc mơ khác nữa cũng quan trọng nhưng không khắc khoải bằng. Ông nằm chong mắt một lúc lâu, giấc mơ hằn sâu trong trí óc, cố nhớ lại hình ảnh khắc trên đầu cột. một cái gì đó rất phi lý, nhưng ông chỉ nhớ có thế!
Không biết tại giấc mơ hay là tại vì đó là ngày nghỉ hè đầu tiên, ông không dậy sớm và lao vào thám hiểm vùng quê ngay. Suốt buổi sáng, nửa lười nhác, nửa muốn tìm hiểu, ông xem xét qua các cuốn sách nói về những vật đã được chuyển giao từ Hội Cổ Vật quận, trong đó có rất nhiều đóng góp của ông Baxter. Nào dụng cụ bằng đá lửa, các di tích nhà cửa thời Roman, di tích các tu viện…hiến cho khảo cổ học. Chúng được viết bằng giọng văn kỳ quặc, khoa trương của người ít học. Giả sử ông này được học hành, Fanshawe nghĩ, hẳn phải là một tay sưu tầm đồ cổ xuất sắc, hay có khi ông ta cũng khá xuất sắc nhưng vì lúc nào cũng ra vẻ muốn chống đối, muốn gây tranh cãi, thể hiện qua cái giọng ông chủ làm như ta có hiểu biết cao hơn người khác thành ra rất khó chịu. Lẽ ra hắn đã có thể là một nghệ sĩ đáng trọng. Hắn đã hình dung ra việc phục hồi một nhà thờ và ý niệm đó đã được thể hiện ra bằng một tháp chuông ở trung tâm, quanh là nhiều tháp nhọn, giống như hình ảnh ông nhìn thấy từ trên đồi mà vị điền chủ bảo đó là Oldbourne. Nhưng không phải Oldbourne mà là tu viện Fulnaker. Ông tự nhủ "Ồ, ta nghĩ ra rồi, có lẽ nhà thờ Oldbourne do các tu sĩ Fulnaker xây, Baxter thì lại sao chép tháp chuông của Oldbourne. Có cái gì trong phần chữ không nhỉ? À đây rồi. In sau khi Baxter chết. Trong các lá thư của Baxter."
Sau cơm trưa, vị điền chủ hỏi Fanshawe định làm gì.
"Tôi định lúc bốn giờ sẽ đi xe đạp tới Oldbourne rồi trở về qua đồi Giá treo cổ. Đi về tất cả một vòng khoảng mười lăm dặm chứ gì?"
"Phải đấy" vị điền chủ nói "nếu anh qua Lamsfield và Wanstone thì cả hai nơi đó đều đáng xem. Có một tấm kính nhỏ ở Lamsfield và Wanstone thì có tảng đá."
"Hay quá!" Fanshawe bảo. "Tôi sẽ dùng trà ở đâu đó. Tôi mang theo ống nhòm được không? Đèo đàng sau xe đạp."


"Được chứ, nếu anh thích. Tôi thì thế nào cũng phải mua ống nhòm tốt hơn. Hôm nay mà lên thị trấn thì tôi sẽ mua."
"Tại sao anh phải lo làm việc đó khi mà cái này có thể dùng được?"
"Ồ, tôi cũng chẳng biết, nhưng cũng phải có đôi ống nhòm ra hồn, với lại, Patten cho rằng dùng ống nhòm này không thích hợp."
"Ông ta là quan toà chăng?"
"Ông ta biết một chuyện đấy, về lão Baxter đấy. Tôi đã hứa để ông ta kể tôi nghe. Ông ta luôn nghĩ tới việc này kể từ đêm hôm qua."
"Sao lại thế? Ông ta cũng mơ như tôi sao?"
"Có chuyện. Sáng nay ông ta đi gặp một cụ già. Ông ta nói đêm qua không chợp mắt."
"Chờ tôi về hãy để ông ta kể luôn thể."
"Được, tôi sẽ cố gắng. Này, anh muộn rồi đấy. Ngộ nhỡ thủng săm xe đạp cách đây tám dặm thì anh đi bộ về à? Mấy cái xe đạp này tin sao được. Tôi sẽ bảo chuẩn bị bữa tối nguội cho chúng ta."
"Về sớm hay muộn tôi chẳng quan tâm. Tôi có đem theo đồ vá xe đây. Thôi tôi đi đây."

Vị điền chủ bảo chuẩn bị bữa tối nguội thế mà đúng, không phải chỉ một lần Fanshawe nghĩ như vậy khi ông đẩy xe lên con đường vào nhà lúc chín giờ tối. Vị điền chủ cũng nghĩ và nói y như vậy, có tới mấy lần. Lúc gặp ông trong sảnh, ông ta tỏ ra khá mừng chủ yếu vì đã khẳng định được niềm tin vào cái xe đạp hơn là thông cảm với ông bạn đang mệt mỏi, nóng nực, khát nước và ngơ ngơ ngác ngác. Thực tế ông chỉ nói được mỗi một câu tử tế nhất "Anh muốn uống thứ gì lâu lâu một chút không? Rượu táo nhé? Được. Nghe thấy chưa, Patten? Rượu táo, nhiều đá vào." Rồi với Fanshawe "Đừng tắm lâu quá anh ạ."
Chín rưỡi thì họ ngồi vào ăn cơm tối. Fanshawe báo cáo lại những tiến triển, nếu ta có thể gọi là tiến triển.
"Tôi đến Lamsfield rất yên ẩm, xem được tấm kính cửa sổ nhà thờ. Hay lắm, chỉ tiếc có một số chữ không đọc được."
"Sao không dùng ống nhòm?"
"Ống nhòm của anh mà dùng ở bên trong một nhà thờ - hoặc bên trong bất cứ nơi nào – đều không thể được, mà hôm nay tôi chỉ toàn vào nhà thờ."
"Hừm! Anh nói tiếp nữa đi."
"Tuy nhiên tôi có chụp được kính cửa sổ, về sẽ phóng to ra. Rồi đến Wanstone, tôi nghĩ tấm đá đó không phải loại thường, tuy nhiên tôi không hiểu về phân loại cổ vật. đã có ai đào cái gò đất có tấm đá dựng ở trên đó chưa?"
"Baxter rất muốn, nhưng người chủ trại không chịu."
"Theo tôi thì cũng đáng đào lên. Nhưng cái mới là ở Oldbourne và Fulnaker. Anh biết không, rất kỳ quặc về cái tháp chuông tôi trông thấy từ trên đồi. Nhà thờ Oldbourne không giống thế một chút nào, còn ở Fulnaker thì chẳng có cái gì cao trên chín mét, kể cả tháp chuông ở trung tâm. Tôi đã nói với anh chưa nhỉ? Nhà thờ Fulnaker mà Baxter hình dung sẽ xây lại có tháp chuông giống hệt như cái tôi đã nhìn thấy."
"Anh nghĩ thế thôi đấy chứ, tôi dám chắc vậy" vị điền chủ bảo.
"Không phải tôi nghĩ ra. Hình vẽ thực chất đã nhắc tôi nhớ tới những gì tôi nhìn thấy qua ống nhòm lúc đứng trên đồi, tôi đinh ninh nó là Oldbourne, trước khi nhìn vào hàng chữ đầu đề."
"Phải, Baxter có những ý tưởng rất hay về kiến trúc. Thành ra hắn chẳng khó khăn gì mà không vẽ được một tháp chuông cho ra tháp chuông từ những gì còn lại."


"Dĩ nhiên hắn có thể, nhưng ngay cả những kiến trúc sư chuyên nghiệp cũng khó lòng vẽ được chính xác như thế. Fulnaker giờ chẳng còn gì ngoài lớp móng của mấy cái cột đỡ ngày trước. Tuy nhiên, đó vẫn chưa phải điều kỳ quặc nhất."
"Thế còn Đồi giá treo cổ?" vị điền chủ hỏi. "Này Patten, nghe tôi kể những gì ông Fanshawe nói về cảnh nhìn thấy từ ngọn đồi chưa?"
"Dạ thưa ông Henry, rồi ạ, và tôi không lấy làm ngạc nhiên."
"Được rồi, được rồi, từ từ hẵng nói, bây giờ nghe ông Fanshawe đã – Fanshawe, kể tiếp đi. Anh lộn về theo đường qua Ackford và Thorfield chứ gì?"
"Phải, tôi xem xét cả hai nhà thờ. Rồi qua chỗ ngoặt rẽ vào Đồi Giá treo cổ. Tôi thấy từ đỉnh đồi này nếu lao xe đạp qua cánh đồng thì ra được đường về nhà. Sáu giờ rưỡi tôi lên đến đỉnh đồi, bên phải có một cái cổng, theo tôi dẫn ra vành đai của khu trồng trọt."
"Nghe thấy chưa Patten? Vành đai."
"Vâng, tôi cũng nghĩ là vành đai. Nhưng thực tế không phải. Anh đã hoàn toàn đúng, còn tôi hoàn toàn sai. Tôi thật không sao hiểu được. Đỉnh đồi thì trồng cây rậm rì. Tôi đi hẳn vào trong rừng, vừa đạp vừa dắt xe, chỉ mong sao cho đến một chỗ rừng thưa, và rồi những chuyện không may bắt đầu xảy ra. Đầu tiên là gai, tôi nghĩ vậy, bánh trước bị thủng, rồi bánh sau cũng thủng nốt. Tôi chỉ dừng lại để đánh dấu những chỗ thủng, nhưng ngay cả việc này cũng không làm nổi, đành cứ thế mà lao vào thêm, càng đi vào càng ngán."
"Này, Patten, chỗ này ít người săn trộm, đúng không?" vị điền chủ hỏi.
"Vâng, thật vậy, họ ngại vào đây.."
"Quả như thế thật, nhưng thôi Fanshawe, cứ nói tiếp đi."
"Tôi không trách người ta ít đi vào đây. Tôi biết tôi đã gặp những chuyện cứ như tưởng tượng ra mà không ai thích cả. Tiếng bước chân loạt soạt trên cành cây gẫy phía sau tôi, có bóng người đi sau gốc cây ngay trước mặt tôi, thậm chí có cả một bàn tay đặt trên vai tôi. Tôi lôi mạnh nó ra và nhìn quanh. Không thấy cành cây hay bụi rậm nào gây ra việc đó cả. Rồi, vào đúng giữa rừng thì tôi cảm thấy có ai đó từ trên cao nhìn xuống tôi với ý đồ chẳng tốt đẹp gì. Tôi dừng lại, ít nhất cũng là đi chậm lại, nhìn lên. Vừa làm vậy tôi ngã lăn ngay xuống, thế là trầy hết da cẳng chân. Nhìn xuống, anh biết cái gì không? Một tảng đá to có lỗ vuông ở giữa. Cách đó mấy bước lại có hai tảng đá nữa giống hệt như thế. Cả ba quây lại thành hình tam giác. Anh có biết họ xếp ở đó để làm gì không?"
"Tôi cho là mình biết" vị điền chủ nói, lúc này vẻ mặt nghiêm trang, càng chìm đắm vào câu chuyện "Patten, ngồi xuống đi."


"Hắn ta sống rất ẩn dật, chết cũng chẳng ai biết" vị điền chủ nói với cái tẩu của mình.
"Xin lỗi ông Henry, tôi đang nói đến chỗ ấy đấy. Nhưng khi tôi nói hắn tiêu thì giờ như thế nào – dĩ nhiên ngoài những lúc đi lùng sục quanh vùng thu thập đủ các thứ có thể tìm kiếm được, quanh đây hàng dặm bán kính ai chẳng nói đến Bảo tàng Baxter – có những lúc hắn vui vẻ rỗi rãi hàng tiếng đồng hồ đem khoe tôi các bình gốm theo hắn là từ thời Roman. Cái đó thì ông biết rõ hơn tôi. Điều tôi muốn nói là, ngoài cái hấp dẫn như lúc hắn nói chuyện, có một cái gì đó về con người ấy, việc đầu tiên là không ai thấy hắn vào nhà thờ vào giờ hành lễ, kể cả nhà thờ nhỏ. Người ta xì xào rằng mục sư của chúng tôi không bao giờ đến nhà hắn trừ một lần. "Xin đừng bao giờ hỏi tôi con người đó đã nói cái gì", đó là tất cả những gì ông mục sư nói ra sau chuyến viếng thăm ấy. Ban đêm hắn làm gì, đặc biệt mùa này trong năm? Không biết bao nhiêu lần, những người làm đồng đi ra đồng làm việc thì gặp hắn trở về và đi ngang qua họ, không hề chào hỏi ai, trông cứ thẫn thờ như ở nhà thương điên ra. Họ thấy mắt hắn trợn tròn và trắng dã. Tay hắn cầm cái rổ đựng cá, và lúc nào cũng đi trên đúng con đường ấy. Người ta kháo nhau hắn làm một công việc riêng tư gì đó – mà không phải loại việc tốt đâu – cũng gần chỗ ông đứng chiều nay lúc bảy giờ."
"Vâng, sau một đêm như vậy, Baxter thường đóng cửa hàng, bà già phục vụ không được phép vào, bà này vâng lời tuyệt đối. Một hôm, khoảng ba giờ chiều, nhà đóng kín như tôi nói trên kia, có tiếng lục **c ở trong và một làn khói bốc ra, Baxter rên rỉ như sắp chết. Ông hàng xóm chạy lên thềm nhà hắn, mở toang cửa ra, nhiều người khác cũng chạy vào. Ông hàng xóm kể lại với tôi là suốt đời chưa ngửi thấy mùi gì kinh hơn thế, bốc ra từ bếp. Hẳn là Baxter đang đun thứ gì đó trong một cái bình và vô ý làm đổ vào chân. Hắn nằm lăn dưới sàn nhà, cố kìm tiếng kêu la, nhưng không kìm nổi, thấy người ta chạy vào – ôi trời, hắn ở tình trạng mới hay chứ. Giá mà lưỡi hắn lúc này cũng rộp lên như cái chân bị đau do lỗi của chính hắn vậy. Họ dựng hắn dậy, cho ngồi lên ghế, chạy đi tìm thầy thuốc, một người nhấc cái bình đang đun ra, Baxter vội kêu to "Cứ để nguyên đấy!" Người hàng xóm thấy trong đó có mấy cái xương người màu nâu. Mọi người bảo "Bác sĩ Lawrence sắp tới chữa trị cho ông." Ông hàng xóm đi về. Baxter hẳn phải lên phòng ngủ lấy khăn phủ lên mọi thứ vì không thể để cho bác sĩ thấy cảnh tượng hỗn độn như vậy được, mọi người bèn lấy cái khăn trải bàn ở phòng khách che đi. Nhưng trong cái bình rõ là có chất độc, bởi gần hai tháng sau Baxter mới lại người. Xin lỗi, ông Henry định nói gì ạ?"
"Tôi thấy làm lạ tại sao trước đây ông không kể gì với tôi vậy? Tuy nhiên, tôi nhớ bác sĩ Lawrence có nói tôi nghe ông ta điều trị cho Baxter thế nào, rất lạ. Một hôm bác sĩ nhặt được trong phòng ngủ của hắn một cái mặt nạ phủ nhung đen, đeo vào rồi ra gương soi. Ông chưa kịp nhìn mặt mình ra sao thì Baxter từ giường kêu toáng lên "Đặt xuống ngay, ông điên à? Ông muốn nhìn qua cặp mắt người chết à?" Bác sĩ giật mình, bỏ mặt nạ ra, hỏi Baxter nói vậy có ý nghĩa gì. Baxter khăng khăng đòi lại cái mặt nạ, nói rằng hắn mua lại của người chết hay câu gì lăng nhăng như vậy. Lawrence sờ vào cái mặt nạ trước khi đưa trả và cảm thấy đó đúng là một cái sọ người. Bác sĩ cũng có mua một bộ điều chế nước cất ở cuộc bán đấu giá đồ đạc nhà Baxter nhưng không bao giờ dùng được, nó bốc mùi hôi kinh lắm, rửa thế nào cũng không sạch. Patten, nói tiếp đi."


"Vâng, thưa ông Henry, tôi nói đây, chỉ là không biết trong phòng đầy tớ họ nghĩ thế nào về tôi. Vâng, vụ bỏng xảy ra, vài năm trước khi Baxter bị bắt đi, sau vụ đó hắn lại làm việc như trước kia. Và công trình cuối cùng của hắn chính là cặp ống nhòm của ông. Hắn làm cái thân ống nhòm mới lâu làm sao, hắn đã đi mua kính để lắp vào từ lâu nhưng phải chờ cái gì đó để hoàn thành tôi không biết. Một hôm tôi nhấc cái khung lên, hỏi ông Baxter "Sao ông không làm cho xong đi?" hắn nói "Khi nào xong tôi sẽ cho ông biết, sẽ không có ai có được cái ống nhòm như của tôi cả, nhưng còn chờ đổ đầy và gắn lại đã." Nói đến đây hắn vội ngừng, tôi hỏi "Ông cứ làm như là đổ rượu vào ấy nhỉ? Việc gì mà phải đổ đầy mới gắn nút?" "Ồ, tôi nói thế à, thế ra tôi đang nói như là nói chuyện với người của tôi." Thời kỳ đó cũng vào mùa này trong năm, và một buổi chiều đẹp trời tôi đi qua cửa hiệu của hắn trên đường về nhà, thấy hắn đang đứng trên bậc tam cấp có vẻ hài lòng với mình ghê lắm, hắn nói "Xong rồi, công trình hạng nhất của tôi đã hoàn thành. Ngày mai tôi sẽ đem chúng theo." "Cái gì cơ? Cặp ống nhòm ấy à? Tôi muốn xem một chút có được không?" "Không, không, đêm nay tôi để trong giường ngủ, bao giờ đưa anh xem thì mỗi lần nhìn vào đó phải trả tiền." Thưa quý vị, đó là những lời cuối cùng của con người đó."
"Hôm đó là ngày 17 tháng Sáu, đúng một tuần sau, có chuyện buồn cười xảy ra, nó làm chúng tôi "rối loạn cả đầu óc" trong cuộc điều tra, vì trừ việc đó ra, không ai biết trong việc làm ăn hắn lại để có chứng cớ chống lại mình như vậy. George Williams sống bên cạnh nhà hắn, giờ vẫn sống ở đó, đêm hôm ấy tỉnh dậy vì trước thềm nhà Baxter như có ai trượt chân ngã lộn nhào, ông ta ra khỏi giường đến bên cửa sổ nhìn xem khách hàng nào mà hung thế. Đêm đó trăng sáng và rõ ràng là không có một ai cả. Ông bèn đứng im nghe ngóng, thấy Baxter bước từng bước xuống bậc tam cấp và có cảm tưởng như có người nào đó bị đẩy lui, tuy người này cố nắm lấy mọi vật trên đường đi xuống. Sau đó ở cửa, ông nghe thấy tiếng cửa cổng mở ra, lần này thì Baxter bước ra đường, mặc quần áo ra ngoài hẳn hoi, hai tay thõng hai bên, nói lẩm bẩm một mình, đầu lắc qua lắc lại và đi một cách miễn cưỡng tựa như bắt buộc phải ra đi không theo ý muốn. George Williams nâng cửa sổ lên, nghe được Baxter van xin "Ôi xin tha cho thưa các ngài" rồi câm lặng luôn như có bàn tay ai bịt miệng hắn lại. Baxter ngửa cổ ra sau, mũ rơi xuống. Williams thấy bộ mặt ông ta vô cùng đáng thương bèn nói to lên "Ông Baxter, ông có làm sao không?" Và định đi tìm bác sĩ Lawrence, nhưng bỗng có tiếng trả lời "Hãy lo việc của mình đi! Thụt đầu vào!" Nhưng có phải là tiếng Baxter không thì không rõ, vì nghe khàn khàn và thều thào. Ngoài Baxter không thấy ai khác ở ngoài phố. Tuy nhiên nghe cái giọng Baxter như thế, ông Williams hoảng người rụt cổ vào, ngồi trên giường. Ông ta nghe tiếng bước chân Baxter đi xa dần, sau đó một phút, không đừng được, ông lại thò đầu ra, thấy Baxter vẫn đi theo cái kiểu kỳ lạ như trước. Ông ta nhận xét có điều lạ là Baxter không hề dừng lại nhặt mũ, mà cái mũ đã được để ở trên đầu ông ta. Vậy đó, ông Henry ạ, dưới là người cuối cùng nhìn thấy Baxter, ít nhất là trong hơn một tuần. Ai cũng bảo ông ta đi có công việc, hoặc rơi vào tình trạng khó khăn nào đó, nhưng người cả vùng trong vòng bán kính một dặm ai chẳng biết ông ta, không thấy ông ta ra ga hoặc xuất hiện ở một nơi công cộng nào, người ta tìm dưới ao, cũng không thấy. Cuối cùng, một ngày nọ, Fakes, người giữ nhà, khi qua đồi để xuống làng thì thấy ngọn Đồi giá treo cổ đầy những chim là chim, đậu đen ngòm, mà từ trước chưa hề thấy thế bao giờ. Dân chúng người nọ nhìn người kia, một người nói "Tôi lên xem thế nào", người khác bảo "Ông đi, tôi cũng đi." Lúc chiều tà khoảng nửa tá người lên đó, đem theo cả bác sĩ Lawrence, và ông Henry biết không, hắn ở giữa ba tảng đá, cổ bị gãy."


Ta chẳng cần hình dung mấy người bàn tán những gì sau khi nghe câu chuyện kể. Trước khi Patten rời bước, ông lão hỏi Fanshawe "Xin lỗi ông, hôm nay đi đường ông có mang theo ống nhòm không? Chắc là có. Ông có dùng đến không ạ?"
"Có. Tôi nhìn vào cái gì đó trong nhà thờ thì phải."
"Ồ! Ông đem nó vào nhà thờ à?"
"Phải. Vào nhà thờ Lambsfield. Tôi vẫn còn buộc nó sau xe đạp dựng ở sân chuồng ngựa ấy."
"Không sao, sáng mai tôi cất vào sớm, các ông sẽ xem lại nó cũng vừa."
Thế là sáng hôm sau, sau một giấc ngủ yên và trước bữa ăn sáng, Fanshawe mang ống nhòm ra vườn nhìn lên ngọn đồi xa xa. Ông lập tức hạ nó xuống, điều chỉnh đi điều chỉnh lại, thử lên thử xuống, cuối cùng nhún vai đặt nó trên chiếc bàn trong sảnh.
"Patten" ông nói "không thể dùng được nữa rồi. Hoàn toàn không nhìn thấy gì, cứ như có ai bịt ống kính đi."
"Này, làm hỏng ống nhòm của tôi rồi hả?" Vị điền chủ nói "Thật cám ơn anh, tôi chỉ có mỗi cái ống nhòm này thôi."
"Anh thử xem thế nào. Tôi có làm gì đâu?" Fanshawe bảo.
Sau bữa ăn sáng, vị điền chủ đưa họ ra sân thượng, đứng trên bậc tam cấp, thử đi thử lại mấy lần. "Trời, tại sao nó vẫn nặng thế này!" ông sốt ruột nói và đánh rơi luôn ống nhòm xuống lớp đá, kính vỡ tan, thân ống nhòm nứt ra, một thứ chất lỏng tràn thành vũng trên đất đá, đen như mực, cái mùi nó toả ra thì kinh tởm không thể tả nổi.
"Đổ đầy và gắn lại, hả?" vị điền chủ nói "Tôi không muốn động vào nhưng chắc chắn là có chỗ hàn. À, thì ra dụng cụ chưng cất, nhỏ giọt của hắn dùng vào việc này đây. Tay đào mả xác chết khủng khiếp!"
"Sao anh lại nói vậy?"
"Anh không nhớ là hắn bảo bác sĩ "nhìn qua mặt người chết" hả? Thì cũng là một cách nói chứ sao! Nhưng các xác chết không thích xương mình bị nấu chảy lên, cuối cùng chúng đem hắn đi, dù hắn không muốn. Tôi có cái xẻng đây, ta chôn nó cho tử tế."
Họ lật lớp đất mặt lên, vị điền chủ trao cái xẻng cho Patten – người đứng xem với vẻ kính nể - bảo Fanshawe "Đáng tiếc là anh đem nó vào trong nhà thờ, ngoài ra anh còn được nhìn thấy nhiều thứ nữa. Baxter có nó trong một tuần lễ, tôi tin hắn chưa kịp nhìn được bao nhiêu."
"Chắc gì anh nói đúng" Fanshawe nói "tôi chẳng nhìn được hình ảnh Tu viện Fulnaker là gì!"

[ Tự động gộp bài ]

+++++++++++++++++++++++++++



Chương XXIV

nhớ tới những chương đầu của quyển Great Expectations. Những cánh đồng bằng phẳng chạy tít lên phía Bắc tiếp giáp những bãi cây thạch nam, rồi thạch nam, linh sam và trên hết là kim tước, tiếp đến đất liền. Một con phố nằm dài dọc theo bờ biển, sau đó là một ngôi nhà thờ to, bằng đá lửa, phía Tây có một tháp chuông rộng và chắc chắn với một chùm sáu quả chuông. Tôi còn nhớ như in tiếng chuông ngân vào một sáng Chủ nhật của tháng Tám, khi mà cả hội chúng tôi chầm chậm theo con đường trắng xóa và đầy bụi leo lên đỉnh đồi nơi ngôi nhà thờ toạ lạc. tiếng chuông vào những ngày nóng như thế nghe lách cách như một nốt giáng âm, nhưng không khí dịu đi thì nghe nó lại êm ái hơn nhiều. Tàu hoả chạy tới ga cuối cùng ở tận đầu kia của con đường. Một cái cối xay gió vui tươi màu trắng đứng sừng sững trước mặt bạn trước khi bạn tới nhà ga, một cái cối xay gió nữa ở gần bãi đá cuội cuối phía Nam thành phố, ngoài ra còn nhiều cối xay gió nữa trên những vùng đất cao hơn ở mạn Bắc. Nhiều mái nhà tranh rải rác đây đó, tường bằng gạch đỏ, mái lợp đá đen…Nhưng vì sao phải làm các bạn bận trí với những chi tiết tầm thường như thế này? Thực tế chữ cứ trào lên ngòi bút của tôi mỗi khi tôi viết về Seaburgh. Tôi chỉ nên cho phép đúng những gì cần viết hiện lên trên mặt giấy mới phải. Ấy thế mà cứ quên hoài, chẳng uốn nắn câu văn chữ nghĩa gì cả.
Giờ thì ta hãy rời biển và thành phố, qua nhà ga, rồi rẽ sang phải, tới con đường toàn cát song song với đường tàu, cứ theo đó mà đi bạn sẽ trèo lên một vùng đất khá cao. Bên trái bạn (bạn đang đi về hướng Bắc) là cỏ thạch nam, bên phải (phía mặt biển) là một vành đai toàn linh sam già cỗi, gió đánh tơi bời, trên ngọn thì rậm rạp, dưới tàn thì trông giống các cây hoang thường mọc ở bờ biển, từ tàu hoả nhìn ra đường chân trời, nếu như bạn không biết, người ta sẽ bảo với bạn là chẳng mấy chốc sẽ ra đến bờ biển lộng gió. Phải, trên đỉnh ngọn đồi nhỏ ấy của tôi, một hàng linh sam bứt ra, chạy tít xuống tận mặt biển, do có một doi đất cắt qua chỗ ấy. Tận cùng doi đất là một cái gò trông ra đồng cỏ xù xì, đỉnh gò có một búi linh sam bao phủ. Bạn có thể ngồi đây trong một ngày xuân nóng nực, hài lòng ngắm biển xanh, cối xay gió trắng, nhà tranh màu đỏ, cỏ bóng lên màu lục, tháp chuông nhà thờ và xa hơn, mãi tận phía Nam, một cái pháo đài cổ.

[ Tự động gộp bài ]
Như đã nói trên, tôi bắt đầu biết Seaburgh từ khi còn nhỏ. Nhưng nhiều năm trôi qua đã khiến cho những hiểu biết lúc thiếu thời của tôi trở nên xa rời thực tế. Ấy nhưng nó vẫn nằm trong niềm thương mến của tôi, mỗi câu chuyện về nó đều làm tôi quan tâm chú ý. Một trong những câu chuyện ấy đến với tôi ở một nơi hẻo lánh của Seaburgh, một cách hoàn toàn vô tình, từ một người cho rằng tôi đủ xứng đáng với lòng tin cậy của anh ta mà tâm sự hết mức.
Tôi biết khá nhiều về miền này (lời anh ta). Mùa xuân tôi thường đến Seaburgh chơi gôn và hay ở khách sạn Con Báo với một người bạn – tên là Henry Long, có lẽ anh cũng quen – ("Hơi hơi thôi", tôi nói) Chúng tôi thường lấy cả một phòng khách nữa, rất vui anh ạ. Anh ấy giờ đây đã mất nên tôi chẳng buồn tới đó làm gì. Với lại sau một câu chuyện rất đặc biệt đã xảy đến với chúng tôi lần cuối cùng khi chúng tôi ở đó, quả thật tôi không thiết trở lại đó chút nào.
Hồi ấy là mùa xuân năm 19…, do may mắn nào không biết, chỉ có hai chúng tôi trong khách sạn. Bình thường các phòng chung không người, cho nên chúng tôi lấy làm lạ khi một chiều kia, sau bữa cơm tối, cửa phòng khách mở ra và một cái đầu thò vào. Chúng tôi biết anh chàng trẻ tuổi này, một nhân vật nhút nhát như thỏ đế, nom xanh xao thiếu máu, tóc vàng nhạt, mắt cũng nhạt màu, nhưng có vẻ hay đáo để. Cho nên khi anh ta hỏi "Xin lỗi các vi, đây là phòng riêng ạ?" thì chúng tôi không càu nhàu, chỉ bảo "Vâng" nhưng rồi Long – hay tôi cũng vậy – nói "Mời anh cứ vào." "Ồ, tôi vào được ạ?" Anh ta có vẻ nhẹ mình. Anh ta muốn có bạn, lại là người biết điều – không phải là loại trút cả lịch sử gia đình mình lên đầu anh – thành ra chúng tôi bảo anh ta cứ tự nhiên. "Dám chắc anh thấy các phòng khách khác trống trơn" tôi nói. Phải, anh ta thấy vậy, nhưng "các ông tốt quá", v..v..Xong rồi, anh ta làm như đọc một quyển sách . Long thì chơi trò kiên nhẫn, tôi thì mải viết lách. Sau một lúc tôi cảm thấy rõ ràng vị khách của chúng tôi bồn chồn, thần kinh bị kích động, lấy làm lạ, tôi bèn bỏ bút giấy, quay lại nói chuyện với anh ta.
Sau vài câu trao đổi, anh ta trở nên tin cậy "Chắc các ông thấy tôi lạ lắm" (anh ta bắt đầu như vậy) "nhưng thực tế tôi đang bị sốc quá". Tôi bèn gọi một thứ rượu, loại làm cho người ta vui lên. Hầu bàn mang đồ uống vào làm gián đoạn ít phút (tôi có cảm giác khi cửa mở anh ta giật nảy người) sau đó anh ta lại trở lại nỗi buồn phiền của mình. Anh không quen ai ở chốn này, vô tình biết chúng tôi (hoá ra trong thị trấn, chúng tôi có mấy người quen chung), anh rất muốn xin chúng tôi một lời khuyên, nếu không phiền. Dĩ nhiên chúng tôi đều nói "Xin anh cứ nói" Long đặt mấy con bài sang một bên, và chúng tôi sẵn sàng nghe.

[ Tự động gộp bài ]
"Nó bắt đầu một tuần trước đây" anh ta kể "Khi tôi đi xe đạp tới Froston cách đây độ năm, sáu dặm, để thăm viếng nhà thờ. Tôi vốn quan tâm đến kiến trúc, có những cánh cổng đẹp tuyệt với các hốc tường, các tấm khiên. Tôi chụp ảnh. Có một ông già quét dọn nhà thờ đi ra hỏi tôi có muốn vào trong xem không. Tôi nói có. Ông lấy chìa khóa dẫn tôi vào xem. Bên trong chẳng có gì mấy nhưng tôi vẫn khen rất đẹp và ông giữ gìn rất sạch. "Nhưng" tôi nói "đẹp nhất là cái cổng." Lúc ấy chúng tôi đã ra đến cổng, ông nói "À vâng, đúng là một cái cổng đẹp, mà ông biết ý nghĩa của huy hiệu trên đó không?"
"Đó là huy hiệu gồm ba vương miện, và mặc dù chẳng phải chuyên về huy hiệu tôi cho rằng mình biết, tôi nói có lẽ đó là huy hiệu cổ xưa của vương quốc Đông Anglia. "Thưa ông, đúng. Ông có rõ ba vương miện nghĩa là gì không?" tôi nói "Có lẽ nó đã biết cả, riêng tôi không nhớ đã được nghe nói đến hay chưa."
"Vậy thì thưa ông" ông ta nói "ông là nhà học giả, tôi xin nói ông nghe điều ông chưa biết. Số là có ba vương miện thiêng được chôn ở phần đất gần bờ biển để giữ cho quân Đức khỏi xâm lược. À, thế ra ông không tin? Nhưng hiện nay chỉ còn một vương miên thiêng mà thôi, mà nếu không có nó, hẳn quân Đức đã đổ bộ vào đây từ lâu rồi cùng tàu chiến, giết hết đàn ông, đàn bà, trẻ em ở trong giường. Đó, tôi đã kể với ông sự thực, nếu không tin, ông hỏi mục sư đang đến kia, thì sẽ rõ."
"Tôi nhìn quanh, ông mục sư đến thật. Một người đẹp đẽ đang rảo bước trên con đường nhỏ, và trước khi tôi kịp nói với ông già là tôi không tin lời ông, thì ông mục sư đã hỏi ngay "Có chuyện gì thế John? Chào ông. Ông đến thăm viếng nhà thờ của chúng tôi ạ?"
"Thế là mấy chúng tôi nói với nhau vài câu, ông già bình tĩnh lại, sau đó mục sư lại hỏi lại là vừa rồi có chuyện gì."
"Ồ, chuyện nhỏ ấy mà, tôi chỉ bảo quý ông đây hỏi ông về chuyện ba chiếc vương miện thiêng."
"À, đúng đấy, thật là một chuyện lạ phải không? Nhưng không hiểu ông có thích nghe những chuyện cổ của chúng tôi hay không. " "Ồ, ông ấy thích lắm," ông già vội trả lời, "ông mà kể thì ông ấy sẽ tin ông, chính bản thân ông là người quen với William Ager, cả cha lẫn con mà."
"Tôi bèn nói mình là người thích nghe toàn bộ câu chuyện. Sau ít phút, tôi cùng mục sư đi ngược con phố của làng để mục sư có ít lời nói cùng dân trong giáo khu, sau đó về nhà mục sư và ông đưa tôi vào phòng giấy. Dọc đường ông đã nhận ra tôi thực sự ưa thích truyện dân gian chứ không phải chỉ là người đi chơi lăng quăng. Thành ra ông sẵn sàng kể cho tôi nghe câu chuyện đồng dao rất đặc biệt trước nay chưa được sách nào in ra hết."

[ Tự động gộp bài ]
Chuyện kể của ông như sau: "Ở vùng này của nước Anh người ta đều tin có ba chiếc vương miện linh thiêng. Người già nói rằng chúng được chôn ở ba nơi khác nhau gần bờ biển để giữ cho người Đan Mạch, Đức hoặc Pháp không xâm lăng vào bờ cõi. Họ kể một vương miện đã bị đào lên từ lâu, chiếc thứ hai bị mất do biển ăn sâu vào đất liền, chỉ còn một chiếc vẫn lo canh giữ quân xâm lược. Nếu ông đã đọc các sách hướng dẫn du lịch cũng như lịch sử của vùng chúng tôi, hẳn ông nhớ vào năm 1687, một chiếc vương miện (người ta cho rằng của Redwald, vua miền Đông Angles) bị đào lên ở Rendlesham, và chao ôi! Nó tan tành trước khi ai đó kịp vẽ lại cho đúng! Rendlesham không ở sát bờ biển, nhưng cũng không sâu trong đất liền bao nhiêu, đường vào rất dễ dàng. Tôi tin đó chính là chiếc vương miện bị đào lên. Ở phía Nam, hẳn tôi khỏi phải thưa với ông, cả một toà lâu đài của vua chúa người Saxon đã bị chìm xuống biển cả. Đó là chiếc vương miện thứ hai, tôi cho là vậy. Và ngoài hai vương miện đó ra, còn một chiếc thứ ba."
"Họ có nói hiện đang ở đâu không ạ?" Dĩ nhiên tôi hỏi.
Ông mục sư trả lời "Có chứ, họ nói vậy, nhưng không bảo cho anh biết đâu." "Với cung cách của ông ta, tôi không dám hỏi thêm, mà chờ một lát rồi nói "Tại sao ông già lại bảo ông biết William Ager, việc này có liên quan gì đến chiếc vương miện không?"
"Nhất định là có rồi, lại thêm một câu chuyện kỳ lạ nữa" ông ta nói "Ages là gia đình ở đây lâu đời, tuy họ không phải người quý tộc hoặc sở hữu nhiều đất đai. Người ta nói họ chỉ là gia đình hoặc chi nhánh của gia đình chịu trách nhiệm canh giữ chiếc vương miện cuối cùng. Cụ Nathaniel Ager là người thứ nhất mà tôi biết – tôi sinh ra và lớn lên ở ngay gần đây – còn cụ thì ở cố định nơi này suốt cuộc chiến tranh 1870. William, con trai cụ, cũng vậy, theo như tôi biết đã ở đây suốt cuộc chiến tranh Phi Châu. Rồi đến William nhỏ, cháu nội cụ, mới chết gần đây thôi, làm một căn nhà tranh gần chỗ chôn giấu vương miện, ở luôn tại đó, tôi nghĩ chính vì vậy mà anh ta chết sớm, vì anh ta bị lao phổi mà cứ phơi mình ở bờ biển canh giữ như thế cả ngày lẫn đêm. Anh ta là người cuối cùng của dòng họ. Anh ta rất đau lòng nghĩ rằng mình thuộc vào dòng họ sau cùng nhưng không biết làm thế nào vì họ hàng gần xa đều ở tại các thuộc địa. Tôi đã viết rất nhiều thư van vỉ họ trở về vì công việc rất quan trọng của gia đình nhưng không ai trả lời. vậy là chiếc vương miện linh thiêng cuối cùng, hiện không có ai canh giữ."
"Ông mục sư kể với tôi như vậy và các ông thử tưởng tượng xem tôi thấy chuyện này đáng quan tâm đến chừng nào. Chia tay ông ấy xong, tôi chỉ còn nghĩ tới mỗi một điều là đến được chỗ mà người ta cho là chiếc vương miện chôn ở đấy. Ước gì tôi cứ để yên nó ở đấy cho xong!"

thay đổi nội dung bởi: APOLONG, 31-03-2009 lúc 09:23 PM. Lý do: Gộp 2 bài gần nhau
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #26  
Cũ 31-03-2009, 09:23 PM
APOLONG's Avatar
APOLONG APOLONG is offline
Điều Hành Viên
 
Tham gia: 14/11/2008
Họ và tên: Apolong
Bài viết: 677
Xã: Tình khác
Gửi tin nhắn qua Yahoo chát tới APOLONG
Default Trả lời : [Truyện Ma Kinh Dị] - Giếng Thở Than - [+16]

"Nhưng có lẽ do số phận run rủi, khi tôi đạp xe về qua nghĩa trang nhà thờ, mắt tôi bắt gặp một ngôi mộ mới với tấm bia có tên William Ager. Tôi đến tận nơi đọc "…của giáo khu này, mất tại Seaburgh, 19…, 28 tuổi." Đó các ông xem. Dò hỏi thận trọng một chút ở đúng nơi đúng chỗ, tôi cũng sẽ tìm ra mái nhà tranh ở nơi gần nhất. Chỉ không biết nên bắt đầu tìm hiểu từ chỗ nào mới là đúng. Nhưng rồi lại là số phận một lần nữa. có một cửa hiệu bán đồ quý hiếm gần đó, tôi lật đi lật lại mấy quyển sách cổ, một trong số đó là quyển sách kinh đóng bìa khá đẹp, năm 1740, để tôi chạy về phòng lấy cho các ông xem."
Anh ta chạy đi trong một tình trạng làm người ta sửng sốt, tuy nhiên chúng tôi chưa kịp trao đổi với nhau nhận xét nào thì anh ta đã hổn hển quay trở lại, đưa chúng tôi xem quyển sách, mở đúng vào trang đầu để trắng trên đó có ghi mấy câu thơ bởi một bàn tay lạ lẫm:
"Nathaniel Ager là tên tôi, nước Anh là nước tôi
Seaburg là nhà tôi, Chúa là Đấng cứu thế của tôi
Khi tôi đã chết và nằm trong mộ, thịt nát xương tan
Mong Chúa hãy nghĩ đến tôi trong khi tôi bị quên lãng
Bài thơ này làm năm 1754, ngoài ra còn có nhiều đoạn về những người của gia đình Agers, Nathaniel, Frederick, William, v..v…tận cùng là William, 19…
"Đấy các ông xem, ai cũng phải nói dịp may hiếm có. Tôi cũng bảo thế nhưng lúc ấy tôi chưa biết. Dĩ nhiên tôi hỏi thăm người chủ hiệu về William Ager, và dĩ nhiên ông tình cờ nhớ ra anh ta sống trong một túp nhà tranh ở cánh đồng mạn Bắc và chết ở đó. Chẳng khác gì vẽ đường cho hươu chạy. Tôi biết ngay nó là túp nhà nào. Chỉ có mỗi một cái kích thước như thế trong cả vùng ấy. Việc tiếp theo là cố làm quen bằng được với dân ở đó và tôi thực hiện ngay. Một con chó đã làm việc này giúp tôi, nó sủa vào tôi dữ dằn đến nỗi dân ở đó phải chạy ra đánh đuổi nó đi, xin lỗi tôi, rồi chúng tôi lân la trò chuyện. Chỉ cần nói cái tên Ager ra và làm như tôi biết hoặc cho là mình có biết chút ít về anh ta, người đàn bà tuôn ra nào buồn quá anh ta phải chết trẻ, nào bà tin chắc anh ta qua đêm ngoài trời trong giá lạnh. Tôi hỏi "Anh ta ra biển ban đêm ạ?" "Không, chỉ là nằm dưới khóm cây cao ở trên cái gò ấy thôi." Tôi bèn đến đấy.


"Tôi khá thông hiểu việc đào đất ở các gò đống vì đã từng đào nhiều gò ở những vùng dưới, nhưng là được phép của chủ đất và giữa ban ngày ban mặt lại có nhiều người giúp đỡ. Tôi phải thăm dò kỹ càng lắm trước khi đặt nhát xẻng vào đấy. Không thể đào một cái hào qua cả cái gò được, hơn nữa, linh sam mọc từ lâu đời sẽ vướng nhiều rễ. Tuy thế đất cát dễ đào, có sẵn cái hang nhỏ, cứ thế phát triển thành một đường hầm. Khó khăn nhất là ra khỏi khách sạn và trở về vào những giờ giấc lạ kỳ.Hôm nào định đào đêm, tôi phải nói với khách sạn đêm đó tôi đi vắng. Khỏi làm các ông chán về mọi chi tiết tôi chịu đựng ra sao, lấp lại thế nào, vấn đề chính là tôi đào được chiếc vương miện."
Không cần phải nói chúng tôi reo lên và thích thú ra sao. Tôi là người đã từ lâu biết chuyện chiếc vương miện ở Rendlesham và than vãn suốt cho số phận của nó. Nào đã ai được nhìn thấy một chiếc vương miện thời Anglo – Saxon bao giờ đâu – ít nhất cũng chẳng ai có. Nhưng anh chàng này của chúng tôi thì lại nhìn chúng tôi với đôi mắt khổ não. "Phải" anh ta nói "khốn thay tôi không biết làm sao chôn lại nó vào chỗ cũ bây giờ."
"Chôn nó vào lại chỗ cũ ư?" Chúng tôi kêu lên "Tại sao hả anh bạn thân mến, anh đã tìm được một trong những thứ lý thú nhất mà người ta nghe thấy ở đất nước này. Phải đem tới nhà Kim hoàn ở Tháp London. Có gì khó khăn nào? Nếu anh lo về chủ đất hoặc vấn đề kho tàng đào được tự nhiên..chắc chắn chúng tôi sẽ giúp anh. Không ai gây cản trở kỹ thuật trong trường hợp như thế này."
Có lẽ chúng tôi còn nói nhiều hơn nữa, nhưng anh ta chỉ úp mặt trong lòng bàn tay và lẩm bẩm "Tôi không biết làm thế nào để lại nó vào chỗ cũ bây giờ."
Cuối cùng Long nói "Hy vọng anh tha lỗi cho nếu như tôi tỏ ra khiếm nhã, nhưng anh có hoàn toàn chắc chắn là anh có nó trong tay không." Bản thân tôi cũng muốn hỏi một câu như vậy vì nghe ra cứ như giấc mơ của một người điên, nhưng không dám hỏi sợ anh ta chạnh lòng. Tuy thế anh ta rất bình tĩnh – cái bình tĩnh thực sự của một niềm tuyệt vọng, có thể nói như vậy. Anh ta ngồi thẳng dậy "Không nghi ngờ gì hết. Tôi có nó, trong phòng tôi, khoá trong túi hành lý. Nếu các ông muốn, xin mời đến xem. Tôi sẽ không mang lại đây đâu."
Còn cơ may nào hơn? Chúng tôi theo anh ta, phòng anh ta cách đó mấy phòng. Người đánh giày đang đi thu thập giày trong hành lang. lúc ấy chúng tôi nghĩ vậy nhưng về sau không chắc lắm. Vị khách của chúng tôi tên là Paxton – run như cầy sấy, vội vã vào phòng, vẫy chúng tôi theo, bật đèn lên, đóng cửa thật kỹ. Rồi mở khoá túi đựng đồ đạc quần áo, mang ra một vật bọc kín trong những chiếc khăn tay sạch, đặt nó trên giưỡng, mở ra. Tôi từ nay dám nói đã tận mắt nhìn thấy một chiếc vương miện Anglo – Saxon thực sự. Nó bằng bạc – chiếc ở Renglesham nghe nói cũng bằng bạc – đính vài viên đá quý, đá chạm, chạm chìm, trông đơn giản, rõ là công trình thủ công thô thiển. Thực tế, nó giống như hình bạn nhìn thấy trên đồng hào hoặc các bản viết tay. Theo tôi, phải trước thế kỷ thứ chín. Dĩ nhiên, tôi vô cùng quan tâm, tôi muốn quay đi quay lại nó trong tay, nhưng Paxton ngăn lại "Ấy ông đừng sờ vào, để tôi." và với một tiếng thở dài làm người ta hãi hùng lên được, anh ta nhấc nó lên,


quay nó tứ phía cho chúng tôi nhìn. "Các ông xem đủ chưa nào?" cuối cùng anh ta hỏi. Chúng tôi gật đầu. Anh ta lại gói lại, khóa trong túi hành lý, sau đó đứng nhìn chúng tôi câm lặng. Long bảo "Ta hãy trở lại phòng chúng tôi, rồi anh nói cho nghe có gì vướng mắc." Anh ta cảm ơn, nói "Các ông về trước đi, và xem xem bờ biển có vắng không?" thật khó hiểu, toàn bộ quá trình này ở trong khách sạn, mà khách sạn thì vắng hoe. Chúng tôi chưa làm cái gì để cho ai ngờ vực. Tuy nhiên, chúng tôi bắt đầu nghi nghi hoặc hoặc – không hiểu tại sao, có lẽ chứng kích động thần kinh vốn hay lây. Thế là chúng tôi đi ra, sau khi mở cửa ngó ra ngoài thật cẩn thận và tưởng như (tôi cho là cả hai chúng tôi đều tưởng như) có một bóng người, thậm chí nhiều hơn một bóng người – nhưng không hề có tiếng động – tránh sang một bên khi chúng tôi đi ra hành lang. "Ổn cả" tôi thì thào vò tai Paxton – đúng là thì thào – và cả ba chúng tôi, Paxton đi giữa – trở lại phòng khách của chúng tôi. Tôi đã chuẩn bị về đến nơi là tha hồ mê li về tầm quan trọng có một không hai của đồ vật mà chúng tôi vừa được xem, nhưng nhìn thấy Paxton như người mất hồn tôi đành để anh ta bắt đầu.
"Làm thế nào bây giờ?" Anh ta bắt đầu như thế. Long nghĩ tốt nhất (về sau anh giải thích cho tôi) là làm như không biết, anh nói "Tại sao không liên lạc tìm xem chủ đất là ai, rồi thông báo…" "Ấy chết, không, không!" Paxton nóng nảy nói "Xin lỗi các ông, các ông rất tốt nhưng chẳng lẽ không thấy là phải đem nó trả về chỗ cũ hay sao? Đêm thì tôi không dám ra đó, ngày thì không thể được. Các ông không biết là suốt từ lúc sờ vào nó, không bao giờ tôi ở một mình sao?" Tôi định đưa ra một câu nhận xét vớ vẩn nào đó nhưng Long đưa mắt bảo im. Long nói "Có lẽ tôi hiểu một phần, anh nói rõ ra xem nào!"


Thế là Paxton thổ lộ hết. Anh ta nhìn qua vai, vẫy chúng tôi lại gần hơn nữa và thì thầm, chúng tôi lắng nghe thật kỹ, sau này ghi lại hầu như từng chữ một "Nó bắt đầu ngay từ khi tôi mới bắt đầu đào lên, liên tục ngăn cản tôi. Lúc nào cũng có người – một người đàn ông – đứng bên cạnh cây linh sam. Mà ban ngày đấy nhé. Người đó không bao giờ ở trước mặt tôi. Dùng đuôi mắt liếc sang phải hoặc trái thì thấy, nhưng nhìn thẳng vào thì không thấy đâu. Tôi nằm xuống một lúc lâu khảo sát kỹ lưỡng, tin chắc không có ai mới lại ngồi dậy thử đào tiếp, thế là lại thấy người đó. Rồi hắn bắt đầu bóng gió với tôi, bất cứ tôi đặt quyển sách kinh của tôi ở đâu, dù cho tôi có khoá nó lại – thì khi về buồng tôi vẫn thấy nó mở ra trên bàn đúng vào trang có những tên người, dao cạo chặn lên trên cho nó không gập lại. Tôi chắc hắn không mở được túi du lịch của tôi, nhưng tôi nghĩ sẽ còn xảy ra nhiều chuyện nữa. Người này nhẹ và ốm yếu, nhưng tôi không bao giờ dám giáp mặt. Khi tôi đào đường hầm, càng tệ hơn, giá như không gan lì hẳn tôi đã bỏ cả xẻng mà chạy. Lúc nào cũng như có ai đó cào vào lưng tôi, lúc đầu tưởng đất rơi vào, nhưng càng đến gần chiếc vương miện thì càng không thể nhầm được. Đến lúc chiếc vương miện lộ hẳn ra và tôi sờ vào vành lôi nó lên thì đằng sau tôi có tiếng kêu thét – nghe mới thật là ai oán! Lại có vẻ hăm doạ khủng khiếp nữa chứ. Làm tôi chẳng còn vui thú gì nữa! Tôi mà không điên thì đã cất vào chỗ cũ ngay lúc đó. Đàng này tôi không. Sau đó mới thật kinh hãi. Mất nhiều giờ đồng hồ mới sạch sẽ đàng hoàng quay về khách sạn được. Còn phải lấp lại hang mà suốt thời gian đó hắn cứ phá tôi. Lúc thì nhìn thấy hắn, lúc thì không, rõ ràng hắn có mặt ở đó nhưng lại có quyền lực gì đó đối với mắt anh. Tôi đi khỏi nơi ấy trước khi mặt trời mọc không lâu, phải đến đi Seaburgh, và đáp tàu trở về. mặc dù trời đã sáng nhưng vẫn thấy khó đi, lúc nào cũng gặp hàng rào, rồi những bụi cây kim tước… nghĩa là luôn có vật cản trở - không ngừng một giây nào. Cuối cùng tôi gặp những người đi làm, ai cũng quay lại nhìn tôi lạ lùng. Có lẽ họ ngạc nhiên thấy người lạ vào lúc sáng sớm tinh mơ, nhưng tôi cho là không phải chỉ có thế, họ không hẳn nhìn vào tôi. Người phu khuân vác ở ga tàu cũng thế. Người gác toa thì cứ giữ cửa lúc tôi đã vào hẳn bên trong – cứ như anh ta thấy có ai cùng vào theo tôi. Có lẽ các ông cho là tôi tưởng tượng." Anh ta cười buồn. Rồi nói tiếp "Ngay cả nếu như tôi đặt nó vào chỗ cũ, chắc chắn hắn cũng không tha tôi đâu. Tôi nói thật đấy. Mà trước đây hai tuần, tôi đã sung sướng bao nhiêu!" anh ta xỉu người vào trong ghế bành và tôi tin là anh ta khóc.

Chúng tôi không biết nói thế nào nhưng nghĩ bụng phải cứu anh ta, mà muốn vậy chỉ còn cách duy nhất. Nếu anh ta quyết phải chôn lại chiếc vương miện, thì phải giúp anh ta thôi. Phải nói là sau những gì chúng tôi nghe anh ta nói thì làm vậy là đúng nhất. hậu quả xảy đến với anh ta biết đâu vì chiếc vương miện có quyền lực nào đó gắn với nó thật để mà canh giữ bờ biển? Ít nhất tôi nghĩ vậy và đó cũng là suy nghĩ của Long. Paxton dĩ nhiên hoan nghênh đề xuất của chúng tôi. Bao giờ thì tiến hành? Mười giờ rưỡi đến nơi rồi. Sau khi chôn lại, còn kịp trở về khách sạn không? chúng tôi nhìn ra ngoài cửa sổ. Đêm ấy trăng sáng vằng vặc – trăng đêm lễ Phục sinh. Trước hết Long liên hệ với anh bồi ở khách sạn để xoa dịu, anh ta nói chúng tôi sẽ không về trễ, nhưng nếu đẹp trời quá và chúng tôi ở lại bên ngoài lâu một chút thì anh ta cũng cố chờ. Chúng tôi là khách quen, không gây rối bao giờ, hơn nữa về mặt tiền boa thì được đầy tớ phục vụ ở đây cho điểm không bao giờ dưới trung bình. Vậy là thuận lợi với anh bồi, chúng tôi ra biển, vừa đi vừa nhìn lại đàng sau. Paxton có một áo khóac rộng bọc vương miện giấu ở bên trong.
Chúng tôi cứ thế lên đường chẳng kịp nghĩ ngợi xa gần gì. Tôi cố tình kể phần này ngắn gọn cho phù hợp với nỗi vội vã lúc chúng tôi định ra kế hoạch và thực hiện nó. "Ngắn nhất là con đường leo qua đồi và băng qua nghĩa địa nhà thờ." Paxton nói. Lúc này tuyệt đối không có một ai, Seaburgh không phải mùa du lịch thì vắng vẻ yên lặng hết chỗ nói. "Ta không thể đi dọc con đê cạnh ngôi nhà tranh ấy, sợ có chó" Paxton bảo vậy, trong khi tôi chỉ ra con đường còn ngắn hơn qua hai cánh đồng ra thẳng biển. Lý do của anh nghe thuận hơn. Đầu tiên chúng tôi lên đồi tới nhà thờ vào cổng nghĩa địa. Tôi thú nhận đã nghĩ có mấy người nằm đây biết việc chúng tôi đang làm. Nếu vậy, họ hẳn hiểu việc này tốt cho họ, họ đang giám sát chúng tôi, nhưng chẳng thấy bóng dáng họ đâu. Tuy nhiên, để ý một chút sẽ thấy chúng tôi đang bị quan sát, cảm giác này tôi chưa từng thấy bao giờ. Đặc biệt khi vào tới một con đường nhỏ có hàng rào cây cao và rậm che chắn, chúng tôi hối hả đi qua như Người Cơ Đốc đi xuống Thung lũng, và thế là ra cánh đồng. Lại đến những dãy hàng rào dài, tuy tôi cứ tưởng đã ra tới ngoài cánh đồng trống để xem có ai ở đằng sau mình không. Sau đó qua một hai cái cổng, quặt trái, lên doi đất chạy ra mặt biển mà tận cùng là cái gò. Gần đến nơi thì tôi cảm thấy, cả Long cũng cảm thấy, có những người ta không nhìn thấy nhưng đang chờ đợi ta, thực tế một người thì rõ ràng nhất. Sự hoảng hốt bồn chồn của Paxton lúc này khó lòng mô tả. Anh ta thở hồng hộc như một con vật bị săn đuổi, tôi và Long không dám nhìn vào mặt anh ta. Không biết anh ta có nghĩ đến tới cái gò làm sao tìm lại được chỗ cũ không, có vẻ như anh ta tin chắc không khó khăn. Không thấy chỗ ấy đâu. Lúc này mới gay go, anh ta lao hết sang bên này lại sang bên kia cái gò, vạch cây cỏ ra tìm, lắm lúc cây cối che hết thân mình anh ta, không thấy anh ta đâu.


Chúng tôi đứng cầm áo và cái bọc trong khăn, sợ sệt nhìn quanh, chẳng thấy gì ngoài hàng cây linh sam in trên nền trời, bên phải cách nửa dặm là nhà thờ với nhiều cây cao, bên trái chỗ đường chân trời là các ngôi nhà tranh và cái cối xay gió, biển chết lặng ở phía trước, một tiếng chó sủa khe khẽ trong túp lều nhà bên con đê sáng loáng, ánh trăng soi sáng thành một con đường lung linh vắt qua mặt biển mà chúng tôi đã quen thuộc, tiếng rì rào của những cây linh sam Scotland trên đầu và của sóng vỗ trước mặt. Yên lặng như thế mà vẫn ý thức được rõ rệt đến những người một sự căm ghét âm thầm ở gần ngay đâu đây, như một con chó bị xích có thể được thả ra bất cứ lúc nào.
Paxton nhô người ra khỏi cái lỗ, giang tay ra chỗ chúng tôi "Đưa đây nào" anh ta thì thào "Cởi bỏ cái bọc ra." Chúng tôi bỏ hết các khăn tay ra, anh ta thì cầm lấy chiếc vương miện. Trăng soi vào đúng lúc anh ta cầm lấy nó. Chúng tôi thì chưa bao giờ chạm vào kim loại, vậy là phải. Một lát sau Paxton ra khỏi cái lỗ, lấp đất lại bằng hai bàn tay chảy máu. Kể ra chẳng cần đến sự giúp đỡ của chúng tôi. Lâu nhất là đoạn làm sao không để lại vết tích lộn xộn nào. Ấy thế nhưng – chẳng hiểu làm thế nào – anh ta hoàn tất rất thành công. Cuối cùng anh ta có vẻ hài lòng và chúng tôi ra về.
Đi khỏi cái gò được hai trăm mét, Long bỗng nói "Anh để quên cái áo rồi, đúng không?" Tôi cũng thấy cái áo màu thẫm nằm trên chỗ cái hang đã lấp. Tuy nhiên Paxton không dừng lại, chỉ lắc đầu một cái rồi giơ lên cái áo trong tay. Khi chúng tôi tới gần, anh ta nói, chẳng có vẻ kích động chút nào như thể bây giờ chẳng còn gì là quan trọng. "Không phải áo tôi". Chúng tôi nhìn lại, không còn thấy cái vật đen đen nằm trên gò nữa. Thế là xong. Chúng tôi ra đường và mau mau theo đó đi về. Về đến khách sạn chưa đến mười hai giờ đêm, chúng tôi làm mặt thản nhiên. Long và tôi bảo nhau: “Đi chơi đêm nay tuyệt thật”. Anh bồi vẫn canh chừng chúng tôi về. Anh ta nhìn đi nhìn lại ra ngoài biển và hỏi "Các ông không gặp ai chứ?" "Không, không một ai" khi nói thế Paxton nhìn tôi kỳ kỳ. "Tôi cứ tưởng trông thấy có người đi sau các ông, họ rẽ chỗ con đường ra ga" anh bồi nói "nhưng các ông có ba người kia mà, chẳng ai làm hại nổi các ông." Tôi không biết nói sao nữa. Long chỉ bảo "Chúc anh ngủ ngon." Chúng tôi lên gác, định tắt hết đèn sau đó sẽ vào giường ngay.


Vào đến phòng rồi chúng tôi cố gắng làm cho Paxton vui lên. "Vậy là chiếc vương miện yên ổn trở lại chỗ cũ rồi" chúng tôi nói "Kể ra anh đừng động vào nó thì hơn" (anh ta đồng ý) "nhưng thực ra chưa gây tổn hại gì, ai mà vô phúc lại gần nó, chúng tôi cũng chẳng bao giờ giúp nữa đâu. Với lại, anh cảm thấy khá hơn rồi chứ? Tôi xin thú thật là suốt dọc đường đi tôi thấy cứ như có người đi theo anh, nhưng trên đường về thì không, phải không nào?" "Không, không khá lên đâu. Các ông thì chẳng vấn đề gì, nhưng tôi, tôi không được tha thứ đâu. Tôi vẫn còn phải trả nợ cho cái tội phạm Thánh phạm Thần khốn khổ ấy. Tôi biết các ông định nói gì, nhà thờ có thể giúp. Vâng, nhưng cái thân tôi phải chịu khổ đây. Nói đúng ra thì trong tinh thần, tôi không còn cảm thấy hắn chờ tôi ở cửa phòng nữa. Nhưng…" Đến đây anh ta ngừng lời, quay sang cám ơn chúng tôi, chúng tôi để anh ta ra về. Dĩ nhiên dặn anh ta ngày mai cứ tiếp tục sử dụng phòng khách của chúng tôi và còn nói sẽ rất vui lòng được cùng đi ra ngoài với anh. Hoặc là anh có chơi gôn không? Có, anh có chơi, nhưng ngày mai chưa muốn. Vậy thì, chúng tôi khuyên, ngày mai anh nên ngủ muộn và trong khi chúng tôi chơi gôn thì hãy ngồi trong phòng khách của chúng tôi rồi cuối ngày cả ba sẽ cùng nhau đi tản bộ. Anh ta tỏ ra chịu vâng lời rất dịu. Sẵn sàng làm những gì mà chúng tôi cho là tốt nhất nhưng rõ ràng trong đầu óc anh ta có ý nghĩ chuyện gì sắp xảy ra không thể nào tránh được hoặc làm khác đi được. Sở dĩ chúng tôi không đề nghị đi kèm anh về tận nhà, giao tận tay cho người thân anh ta chăm sóc là vì gia đình anh không còn ai. Anh có căn hộ trên tỉnh, nhưng gần đây có ý định sang Thuỵ Điển sống một thời gian, căn hộ không còn, đồ đạc hành ly đóng gói gửi cả đi rồi, anh dự định đi chơi đâu đó vài tuần lễ trước khi bắt đầu cuộc đời mới cho nên mới đến đây. Tuy nhiên, chúng tôi chỉ còn biết đi ngủ cho quên – thực ra tôi ngủ không được bao nhiêu – mai hãy hay.

Cảm giác của chúng tôi khác hắn đi, tôi và Long, trong một buổi sáng tháng Tư đẹp trời, trông Paxton lại càng khác. Anh ta nói lúc ăn sáng "Lần đầu tiên tôi ngủ ngon." Anh sẽ làm theo ý chúng tôi, buổi sáng ở nhà, chiều cùng chúng tôi đi dạo. Chúng tôi ra sân gôn,gặp vài người bạn, đánh gôn với họ suốt buổi sáng, ăn cơm trưa sớm để về nhà khỏi muộn. Ấy vậy nhưng cái lưới của thần chết vẫn bủa vây anh ta.
Không hiểu việc này có ngăn trở được không thì tôi không biết, nhưng tôi cho rằng chúng tôi đã làm tất cả những gì có thể. Dù sao đi nữa, câu chuyện đã xảy ra như thế này.
Về thẳng buồng chúng tôi thấy Paxton vẫn đang yên bình ngồi đọc sách "Sẵn sàng ra ngoài một chút không?" Long hỏi "Độ nửa giờ nữa?" "Được ạ," anh ta nói. "Chúng tôi thay quần áo, có lẽ tắm một cái nữa đã, nửa giờ nữa chúng tôi sẽ gọi anh." Tôi tắm trước, rồi nằm ngủ độ mười phút. Hai chúng tôi cùng từ phòng mình bước ra và cùng xuống phòng khách một lúc. Không thấy Paxton đâu, chỉ còn quyển sách. Trong phòng anh ta cũng không mà trong các phòng khách dưới nhà cũng không. Chúng tôi gọi ầm lên. Một đầy tớ nói "Tôi tưởng các vị đã ra ngoài, ông ta cùng đi mà. Ông ta nghe tưởng các ông gọi ngoài đường, vội chạy ra, tôi từ phòng cà phê nhìn ra thấy ông ta mà, tuy không thấy các ông. Ông ta chạy xuống biển theo con đường này này."

Không nói một lời, chúng tôi rượt theo, ngược lại với hướng chuyến đi đêm qua. Lúc ấy bốn giờ chiều, trời còn sáng, không có ly do gì để mà quá lo lắng. Vẫn còn người đi ngoài đường cơ mà.
Nhưng có lẽ cái nhìn trong mắt chúng tôi có vẻ thế nào đấy, thành ra người đầy tớ chạy ra hẳn bậc tam cấp, chỉ tay "Lối này này!" chúng tôi chạy tới tận bãi đá cuội thì dừng lại. Đến đây phải chọn nên theo ngả nào, qua dãy nhà trước mặt biển hay dọc bãi cát xuống bờ biển nơi thủy triều đang lên. Dĩ nhiên chúng tôi có thể cứ theo bãi đá cuội mà nhìn sang hai ngả, nhưng tôi chọn bãi cát, chỗ ấy vắng vẻ, ai đó có thể gây hại mà không người nào từ ngoài đường nhìn thấy được.
Long nói thấy Paxton chạy phía trước, vừa chạy vừa vẫy cây gậy ra dấu cho ai đó chạy trước anh ta. Tôi không dám chắc. Sương mù lúc này đang từ phía Nam dâng lên. Đúng là có ai đó, tôi chỉ dám nói như vậy. Và có vết giày trên cát, lại còn những vết chân không đi giày chạy trước nó vì vết giày đôi khi chồng lên. Thế này thì tôi chỉ còn có thể nói Paxton chết mà chẳng có cách nào phác hoạ được cung cách ra làm sao vì thủy triều sẽ xóa đi tất cả. chúng tôi vội chạy tới để ý nhìn, các vết chân ấy còn chạy tiếp, chạy tiếp mãi, vết chân trần kia thì không nghi ngờ gì nữa, chỉ có xương không có thịt.


Ý tưởng Paxton chạy theo một cái gì đó giống như chỉ có xương mà lại cho là hai người bạn mình làm chúng tôi hết cả hồn vía. Bạn có biết chúng tôi tưởng tượng thế nào không. Kẻ kia chợt dừng lại, đối mặt với Paxton, bộ mặt ấy hiện ra trong làn sương dày đặc…Tôi vừa chạy vừa không hiểu tại sao anh chàng khốn khổ ấy lại bị lùa vào bẫy, nhầm kẻ kia với hai người bạn, vừa sực nhớ lời Paxton "hắn có uy lực gì đó trên đôi mắt anh." Và thế là tôi nghĩ đến kết cục của nó, một kết cục không tránh được. Khỏi phải nói cho các bạn biết bao ý nghĩ khủng khiếp đã lướt qua óc tôi trong khi chúng tôi tiếp tục chạy trong sương mù. Huyền bí thay, trên đầu chúng tôi mặt trời có lẽ vẫn tỏa ánh sáng mà chúng tôi không nhìn thấy gì cả, chỉ có thể nói được là chạy qua toàn bộ dãy nhà và đã tới khoảng trống nằm giữa dãy nhà và pháo đài cổ. Qua pháo đài rồi thì chỉ còn bãi đá cuội trải dài – không nhà, không người, chỉ là một dải đất, hay một dải đá sỏi, bên phải là sông, bên trái là biển.
Nhưng trước khi đến pháo đài, bạn nhớ cho, có một ụ pháo cổ nằm ngay bờ biển, giờ đây chỉ còn là một vài tảng bê tông, còn tất cả đã bị biển cuốn trôi, nhưng thời ấy thì số tảng bê tông nhiều hơn tuy toàn bộ ụ pháo đã đổ nát. Chúng tôi chạy tới đó, trèo hẳn lên trên chỗ cao nhất vừa để thở vừa để nhìn suốt bãi đá sỏi xem may ra sương mù có chỗ nào loãng mà thấy được gì chăng. Với lại cũng phải nghỉ đã. Chúng tôi đã chạy bộ ít nhất một dặm đường. Trước mặt hoàn toàn không thấy gì, và chúng tôi đang vô vọng trở xuống thì bỗng nhiên vẳng đến một thứ tưởng chỉ có thể là tiếng cười. Bạn hiểu tôi nói gì không, tiếng cười thì không có hơi thở, không có phổi, khó hy vọng bạn hình dung được, từ phía dưới đưa lên, nó quay cuồng trong không gian, trong sương mù. Đủ chưa? Chúng tôi nhìn xuống bên dưới bức tường. Paxton ở dưới chân tường.
Chẳng cần nói bạn cũng hiểu anh ta đã chết. Vết chân anh ta chứng tỏ anh chạy dọc theo bên cạnh ụ pháo, rồi ngoặt lại chỗ góc và không nghi ngờ gì nữa, xô thẳng vào vòng tay giang ra chờ đợi của một người nào đó đang đón anh ở đấy. Miệng anh đầy đá và cát, hàm răng vỡ vụn. Tôi chỉ dám liếc có một lần vào bộ mặt anh ta.
Cùng lúc chúng tôi từ ụ pháo leo xuống chỗ thi thể anh thì có tiếng kêu, chúng tôi trông thấy một người đàn ông chạy từ trên pháo đài xuống. Đó là người bảo vệ ở đây, đôi mắt tinh tường của ông ta đã thấy ra qua lớp sương mù có chuyện gì đó không ổn. Ông nhìn thấy Paxton ngã, sau đó một lúc chúng tôi chạy theo đàng sau, may thay, nếu không có ông ta thế nào chúng tôi chẳng bị nghi ngờ can dự vào sự tình kinh khủng này. Chúng tôi hỏi ông có nhìn thấy ai tấn công người bạn của chúng tôi không. Ông nói không dám chắc.
Chúng tôi nhờ ông đi tìm người đến giúp và ở lại bên cạnh người chết cho tới khi họ đem cáng đến. Lúc đó chúng tôi mới hình dung ra con đường anh ta đến. Quanh đây chỉ còn lại mỗi bãi sỏi, kẻ kia biến đi đâu?
Chúng tôi biết nói gì trong cuộc điều tra về cái chết bất thường này? Chúng tôi cảm thấy có bổn phận không được nói ra bí mật của chiếc vương miện, không để nó được đăng tải trên báo chí. Không cần biết các bạn rõ chuyện này đến đâu, nhưng hai chúng tôi chỉ nhất trí nói rằng chúng tôi vừa mới quen Paxton ngày hôm trước, anh ta tâm sự đang trong cơn nguy hiểm dưới bàn tay một người tên là William Ager. Chúng tôi cũng thấy vết chân ai đó bên cạnh vết chân Paxton trên bãi cát. Dĩ nhiên lúc ấy bãi cát có còn vết tích gì đâu.
May thay không ai biết người nào tên là William Ager sống trong vùng ấy cả. Nhờ sự làm chứng của người đàn ông trên pháo đài, chúng tôi thoát bị nghi oan. Cuối cùng người ta chỉ tuyên cáo một cái chết bị cố tình ám sát bởi một hoặc nhiều người.
Paxton hoàn toàn không có họ hàng thân thuộc thành ra mọi điều tra bị bế tắc. Về phần tôi không bao giờ đến Seaburgh nữa, lại vãng gần đó cũng không, kể từ ngày đó.

[ Tự động gộp bài ]

+++++++++++++++++++++++++++++++++



Chương XXV

Trong các cuốn sách cổ, người ta hay mô tả một hình thức rất thông thường là cảnh mùa đông bên lò sưởi khi người bà có tuổi đang kể chuyện cho các cháu vây quanh, chúng cứ ngây ra mà nhìn vào miệng bà, nghe hết chuyện ma đến chuyện tiên trong khi bà chúng thì khiến thính giả say mê với niềm sợ hãi vui vui. Ta nào có được phép biết đó là những chuyện gì đâu. Thật ra chúng ta có được nghe về những con ma trùm kín mít chỉ lộ đôi mắt tròn to tướng, ly kỳ hơn thì có chuyện "Con yêu tóc đỏ với những cái xương vấy máu" (theo từ điển Oxford thì có từ năm 1550) nhưng ngoài ra thì ta chẳng biết được những hình ảnh hấp dẫn nào khác.
Thành ra đó là một vấn đề vô cùng ám ảnh tôi mà tôi chưa biết giải quyết cách nào. Những người bà có tuổi ấy không còn nữa, những người sưu tầm truyện dân gian ở Anh bắt đầu công việc của họ quá muộn để thu thập được hầu hết các câu chuyện kể của các cụ. Tuy thế những sự việc như vậy làm sao mất đi được, và trí tưởng tượng, dựa trên những gợi ý bóng gió, vẫn vẽ ra cảnh một buổi giải trí lúc chiều hôm, thí dụ như theo quyển Chuyện trò buổi chiều tối của bà Marcet, Đối thoại về hóa học của ông Joyce, hoặc Triết lý trong thể thao tạo nên khoa học nghiêm chỉnh của tác giả nào không rõ, đã nhằm dập tắt những sai lầm và dị đoan dưới ánh sáng của lợi ích và sự thật theo kiểu như thế này:
CHARLES: Cha, gìờ con đã hiểu những tính cách của đòn bẩy mà cha giảng cho con hôm thứ Bảy, nhưng nghĩ đến cái con lắc, con lại không hiểu tại sao khi không cho nó chạy thì đồng hồ cũng thôi chạy luôn.
CHA: (Đồ trẻ con tội lỗi, sao con lại dây dưa vào cái đồng hồ trong sảnh? Lại đây! – Không, đây hẳn chỉ là một lời phê phán tự dưng bò vào bài viết này) Con ạ, tuy cha không tán thành cái cách thí nghiệm không có cha giám sát khiến nó có thể làm hỏng một dụng cụ khoa học đáng giá như thế, nhưng cha sẽ cố gắng hết sức để giải thích cho con những nguyên tắc của con lắc. Con hãy kiếm một sợi dây bện thật chắc, ở trong ngăn kéo phòng giấy của cha ấy, và nói bà bếp làm ơn cho mượn cái cân bà vẫn sử dụng.
Đến đấy chúng ta ra khỏi cảnh trí đó.

[ Tự động gộp bài ]
BÀ NỘI: Nào, nào. Để bà sẽ kể các cháu nghe, nhưng phải yên lặng, không được ngắt lời. Để xem nào. Hồi bà còn bé, con đường đó có cái tên rất xấu, nhưng nay có lẽ chẳng ai còn nhớ. Một hôm, đúng vào một buổi tối như thế này – bà kể với mẹ bà khi về ăn cơm tối – đó là tối mùa hè – bà đã dạo chơi ở đâu, sau đó đi xuống con đường ấy như thế nào và hỏi cụ không hiểu sao ở đầu đường có nhiều bụi lý chua và lý gai thế không biết. Vừa nghe xong, cụ bị sốc, phát cho bà một cái nên thân rồi nói "Con hư quá, hư quá, mẹ đã bảo con đến hai chục lần không được đi vào con đường ấy cơ mà? Thế mà con lại nhởn nhơ ở đó lúc đêm hôm!" Cụ mắng xong bà sợ quá không nói được câu gì, chỉ cố thanh minh để cụ hiểu là lần đầu tiên bà nghe nói vậy, mà quả như vậy thật. Cụ ân hận đã nặng lời với bà, và để bù lại, cụ đã kể cho bà nghe toàn bộ câu chuyện. Sau khi ăn cơm xong. Và từ bấy đến giờ trở đi bà cũng luôn luôn nghe những người già trong làng nói về chuyện ấy, hơn nữa bà còn có những lý do riêng để tin chắc trong đó thể nào cũng có vấn đề.
Thế này nhé, ở tít tận cuối con đường – để bà xem khi đi lên thì ở bên phải hay bên trái – à, là bên trái, các cháu sẽ thấy một đám cây bụi nhỏ mọc trên mặt đất gồ ghề, gần đó có cái hàng rào đổ và một đám cây lý chua và lý gai – có thể trước đây chúng mọc nhiều hơn là bây giờ, vì đã lâu bà không lên đấy. Có nghĩa ngày xưa ở đó là ngôi nhà tranh, một người tên là Davis sống trong đó. Nghe nói ông ta không sinh trưởng ở giáo khu này, hồi đó bà chưa ra đời và quả là sau này khắp vùng cũng không có ai tên như thế nữa. Ông ta sống rất cô độc, rất ít khi ra nơi công cộng, cũng chẳng làm thuê cho trại chủ nào, có vẻ như đủ tiền để sống đều đều, chỉ những ngày phiên chợ thì đi chợ lấy thư ở nhà bưu điện. Một hôm từ chợ về, ông ta mang theo một chàng trẻ tuổi, hai người cùng sống với nhau. Anh ta làm việc cho ông Davis hay Davis là thầy dạy của anh ta, khó ai mà biết được. Bà nghe nói anh ta xấu trai, mặt mũi xanh xao, tính tình ít nói. Hai người đàn ông này làm gì với nhau? Dĩ nhiên bà không thể nói với các cháu những điều điên rồ mà mọi người xung quanh nghĩ về họ, các cháu cũng biết ta không nên nói xấu người khác khi không biết chắc chắn, ngay cả khi họ đã chết đi. Nhưng như bà đã nói, hai người lúc nào cũng đi cùng với nhau, sớm cũng như muộn, lên trên bình nguyên hay xuống nơi rừng rú. Đặc biệt có một con đường mà họ đều đặn đi cùng nhau mỗi tháng một lần, tức là con đường lên sườn đồi nơi có hình người chạm khắc ấy, mùa hè thì họ cắm lều ở luôn trên đó suốt đêm, cũng có khi ở gần quanh đó. Bà còn nhớ có một lần cha của bà – tức là cụ nội các cháu- nói chuyện với Davis về việc này (ông Davis sống trên đất của cụ mà), cụ hỏi ông Davis sao cứ thích đi đến chỗ ấy, ông ta nói "Ồ, đấy là một nơi cổ kính tuyệt đẹp, thưa cụ, tôi là người vốn ưa những thứ cổ và nhất là khi anh ta (tức là người trẻ tuổi) và tôi cùng nhau đến đó, tôi cảm thấy như thời xa xưa trở về, cụ ạ." Cụ cố của các cháu bảo "Vâng, đối với ông thì là hợp, nhưng tôi thì sao tôi sợ một nơi hẻo lánh

thay đổi nội dung bởi: APOLONG, 31-03-2009 lúc 09:33 PM. Lý do: Gộp 2 bài gần nhau
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #27  
Cũ 31-03-2009, 09:34 PM
APOLONG's Avatar
APOLONG APOLONG is offline
Điều Hành Viên
 
Tham gia: 14/11/2008
Họ và tên: Apolong
Bài viết: 677
Xã: Tình khác
Gửi tin nhắn qua Yahoo chát tới APOLONG
Default Trả lời : [Truyện Ma Kinh Dị] - Giếng Thở Than - [+16]

như vậy vào ban đêm thể không biết." Ông Davis mỉm cười, còn anh chàng trẻ tuổi ngồi nghe nói chêm vào "Ồ, chúng tôi chẳng muốn có ai ở gần trong những thời gian như thế này." Cụ cố cảm thấy ông Davis có ra dấu gì cho anh chàng ta, thế là anh ta vội nói ngay như để lấp liếm "Nói vậy có nghĩa hai chúng tôi ở gần nhau là đủ, phải không ông chủ? Với lại đêm hè không khí trên đó thật tuyệt, dưới ánh trăng nom rõ quang cảnh khắp vùng mà trông nó khác hẳn ban ngày cơ chứ. Tất cả những gò đống bên dưới kia…" đến đây ông Davis cắt ngang, có vẻ cáu với anh kia, nói "Vâng, chúng là những nơi rất lâu đời rồi, phải không cụ? Theo cụ thì những gò đống ấy là cái gì vậy?" cụ cố bảo (các cháu ạ, nghĩ lại kể cũng buồn cười, không hiểu sao bà lại nhớ thế không biết. Có lẽ nó ăn vào trí tưởng tượng của bà suốt một thời gian dài không thể nào quên được) phải, cụ bảo "Ông Davis ạ, tôi nghe nói chúng vốn là những nấm mộ cả đấy, mà có dịp cày đất lên, tôi thấy xương người và những cái bình đất. Mộ của những ai thì tôi không biết, người ta nói xưa vùng này có người Roman cổ sống một thời gian, họ chôn người theo kiểu đó thì tôi chịu không hiểu được." Ông Davis nghĩ ngợi rồi lắc đầu "Đúng vậy, tôi trông họ cứ như người Roman cổ đại, họ mặc khác ta lắm – có nghĩa theo ảnh in trong sách họ mặc áo giáp sắt – thế cụ có đào thấy áo giáp sắt không ạ?" Cụ cố ngạc nhiên "Tôi có nói gì đến áo giáp sắt đâu nhỉ? Không, tôi không đào được áo giáp. Nhưng ông nói ông trông thấy họ à?" Cả hai, ông Davis và người trẻ tuổi cười "Trông thấy họ ấy ạ? Sau ngần ấy năm thì khó lắm. Nhưng tôi rất muốn biết về những người cổ xưa, không hiểu họ thờ những gì?" Cụ cố nói "Thờ ấy à? Tôi chắc họ thờ cái hình người chạm khắc trên đồi ấy." "À, phải rồi," ông Davis nói "tôi cũng vẫn nghĩ vậy." Cụ cố bèn nói thêm cho họ nghe, cụ đã được nghe kể về những gì về người ngoại đạo thời xưa, họ cúng tế như thế nào, một ngày kia rồi bản thân cháu, Charles, khi đi học tiếng La tinh – cháu sẽ hiểu. Cả hai người ra vẻ quan tâm ghê lắm nhưng cụ cố kể lại là những gì cụ nói có vẻ chẳng xa lạ gì với họ. Đó là lần duy nhất cụ chuyện trò với họ khá lâu và cụ nhớ mãi câu người trai trẻ nói "chúng tôi không muốn có ai ở gần". Bởi vì những ngày này dân làng bàn tán xôn xao về họ. Cụ không muốn dính vào, dân làng thời kỳ ấy sẵn sàng dìm đầu một mụ già xuống nước, chỉ do nghi mụ ấy là phù thủy.

CHARLES: Dìm mụ già xuống nước chỉ do nghĩ là phù thủy sao hả bà? Ở đây vẫn còn phù thủy ạ?
BÀ NỘI: Không, không, bà đi lạc đề mất rồi! Đó là chuyện khác. Điều bà muốn nói là dân làng ở những vùng quanh đây tin là đêm đêm thường có những buổi hội họp trên đỉnh đồi nơi ông Davis tới và những ai lên đó là những người xấu. nhưng các cháu đừng ngắt lời bà nữa và muộn rồi. Ông Davis và anh chàng kia sống với nhau ba năm, đột nhiên xảy ra một chuyện kinh hoàng, chẳng biết có nên kể cho các cháu nghe không đây. (Có tiếng kêu: Ồ, bà cứ kể tiếp đi bà) Được, nhưng không được sợ và kêu lên giữa đêm khuya đấy nhé. (Vâng, vâng, dĩ nhiên) Một buổi sáng tháng Chín, một bác tiều phu vào rừng sớm tinh mơ, khi lên đến đỉnh đồi chỗ mấy cây sồi cao nằm giữa một khoảng rừng thưa, chợt thấy một bóng trăng trắng như bóng người trong màn sương, bác ta ngần ngừ song cứ tiến đến gần, thì nhận ra đó là một người đàn ông, tức anh chàng trẻ tuổi của ông Davis, mặc chiếc áo choàng dài trắng, treo cổ trên một cành cây sồi, đã chết. Dưới chân có một cái rìu nằm trong vũng máu. Cảnh tượng quá kinh khủng ở một nơi vắng vẻ! Bác tiều phu khốn khổ phát rồ lên, vứt hết mọi đồ nghề trong tay, chạy bán sống bán chết về nhà mục sư đánh thức mọi người dậy. Ông mục sư White bảo bác tìm thêm vài người khoẻ mạnh, bác thợ rèn và mấy người dân phòng. Ông cũng mặc áo đi theo họ, mang cả một con ngựa lên để chở cái xác về. Đến nơi ai nấy hãi hùng nhưng sốc nhất là cách ăn mặc của xác chết, nhất là đối với mục sư. Có khác gì nhạo báng nhà thờ vì đó là kiểu áo tế của nhà thờ tuy không giống hẳn. Đỡ xác chết xuống, họ thấy một dây xích kim loại quấn quanh cổ, trên dây xích trang trí một bánh xe rất cổ. Họ cử ngay một thằng bé chạy về nhà ông Davis xem ông có nhà không vì họ rất nghi ngại. Ông White còn cử người đi tìm cảnh sát ở giáo khu bên cạnh cùng lời nhắn tới một quan toà khác (bản thân ông cũng là quan toà) tóm lại chạy tứ tung các nơi. Cụ cố nhà ta hôm đó đi vắng, nếu không đã được tìm đến trước tiên rồi. Họ đặt cái xác nằm ngang trên lưng ngựa và phải giữ mãi con ngựa mới không chạy trốn ngay khi đến chỗ cái cây vì nó sợ đến hoá điên. Tuy nhiên họ bịt mắt nó lại, dẫn nó xuống con đường làng, nơi đây bên cạnh cây cổ thụ một đám đông phụ nữ xúm đông xúm đỏ, thằng bé con được cử tới nhà ông Davis thì nằm ở giữa, mặt trắng như tờ giấy, cậy môi nó cũng không ra một lời nào. Họ e chuyện tệ hơn nữa đây, vội vàng lao đến con đường lên nhà ông Davis. Tới gần thì con ngựa lại một lần nữa chồm lên vì sợ hãi, nó ***g lên và hí ầm ĩ, chân trước đá lung tung làm người dắt ngựa suýt chết và xác chết suýt rơi xuống đất. Ông White vội bảo người đưa con ngựa ra chỗ khác ngay, mọi người khiêng cái xác chết vào phòng khách vì cửa mở. Họ nhìn thấy cái đã làm cho thằng bé sợ hết vía và con ngựa hoá rồ lên đến như thế, ta đều biết ngựa rất sợ mùi máu.


Giữa phòng, có một cái bàn dài một người nằm ngữa, ông Davis nằm trên đó, hai mắt buộc một dải vải lanh, hai cánh tay bị trói quặt ra sau, hai bàn chân cũng bị buộc vào nhau bằng một dải băng khác. Cái đáng sợ nhất là bộ ngực để trần bị phanh dọc ra suốt từ trên xuống dưới bởi một cái rìu! Cảnh tượng khủng khiếp đến nỗi ai trông thấy cũng muốn ngất đi, phải chạy vội ra ngoài trời. Ngay cả ông White là người cứng bóng vía cũng gần như quỵ đi, phải ra vườn cầu kinh.
Họ cố đặt xác chết người trẻ tuổi vào trong nhà rồi lùng sục trong nhà xem có thấy cái gì khả nghi đưa được sự thể kinh người trên đây không. Trong tủ thấy đầy dược thảo và các bình đựng rượu, mọi người xem và thấy loại rượu này uống khiến người ta ngủ say, chắc hẳn anh chàng trẻ tuổi kia đã pha vào nước uống của ông Davis, rồi làm cho ông ta như thế kia. Sau đó ân hận, anh ta tự tử chết nốt.
Bây giờ thì các cháu chưa hiểu hết cảnh sát tư pháp và quan toà phải làm việc như thế nào về mặt luật pháp đâu, chỉ biết là trong suốt mấy ngày sau, người đi người đến rất nhiều, dân trong giáo khu họp lại nhất trí không cho chôn hai kẻ đó trong nghĩa trang nhà thờ, bên cạnh những con chiên ngoan đạo. Bà phải nói để các cháu biết là trong tủ và các ngăn kéo có rất nhiều giấy tờ, các bài viết, mà ông White cùng nhiều tu sĩ đã đọc, các ông ấy đi đến kết luận và viết vào rồi ký tên chứng nhận đây là hai kẻ tội lỗi đã sùng bái tà ma mà họ thần tượng và sợ rằng một số người sống ở những nơi quanh đây đã không thoát khỏi sự đồi trụy xấu xa này nên các vị kêu gọi họ hãy ăn năn sửa chữa kẻo đi đến chỗ sa ngã giống như hai người kia, sau đó đốt hết các giấy tờ đi. Dĩ nhiên ông White có cùng ý nghĩ với những người trong giáo khu. Một chiều tối kia, mười hai người đàn ông khoẻ mạnh được lựa chọn để theo ông tới căn nhà đồi bại, mang theo hai tay đòn sơ sài phủ vải đen, ở chỗ ngã tư rẽ đi Bascombe và Wilcombe, rất nhiều người đã đốt đuốc đứng đợi sẵn, họ đào một cái hố, mọi người vây chung quanh. Những người đi tới căn nhà thì đầu vẫn đội mũ, họ đưa hai xác chết lên hai tay đòn, phủ vải đen lên trên, khiêng xuống con đường, vứt vào hố, phủ đá lên trên, ông White nói vài lời với đám đông. Cha của bà cũng có mặt ở đó, cụ trở về nhà khi nghe tin, cụ nói chưa bao giờ thấy cảnh nào lạ lùng như thế, đuốc cháy sáng rực trong khi hai vật đen đen nằm chồng chất vào nhau trong hố. Không gian im lặng không một tiếng động, trừ một tiếng phụ nữ rên lên vì sợ. Ông White nói xong, mọi người ra về để hai thây người chết lại đó.
Nghe người ta kể, hiện giờ đến ngựa cũng không dám đi qua chỗ ấy, một làn sương lơ lửng trên chỗ ấy suốt ngày trong một thời gian rất lâu, bà không hiểu có thật không. Nhưng cụ cố hôm sau có việc phải đi qua đầu con đường thì thấy ba, bốn tốp người tụ tập gần đó, cứ như có chuyện gì, cụ cưỡi ngựa lại gần hỏi thì họ bảo "Thưa điền chủ, có máu! Cụ nhìn mà xem!" Cụ xuống ngựa, họ chỉ cho cụ xem bốn vũng máu bâu đầy ruồi, chúng đậu tịt vào đấy không chịu bay đi. Máu này từ thây ông Davis nhỏ xuống khi được khiêng đi chôn. Xác định rồi cụ bèn bảo một người đứng ở đó "Anh lấy một cái rổ đựng đất sạch lấy ở nghĩa trang nhà thờ - rắc lên, tôi đợi ở đây." Anh này trở lại cùng với người trông coi nhà thờ và nghĩa trang với rổ đất, vừa rắc đất lên ruồi bay lên hết tạo thành một đám mây đen kịt bay là là về phía căn nhà. Người trông coi nhà thờ và nghĩa trang (ông này đồng thời cũng là thư ký của giáo khu) nói mỗi một câu "Toàn loại ruồi chúa cả."
CHARLES: Nhưng như thế nghĩa là gì hả bà?


BÀ NỘi: Ngày mai cháu nhớ hỏi ông Lucas khi ông ấy đến dạy học, chứ bây giờ bà không nói nhiều được, vì quá giờ đi ngủ từ lâu rồi. Một việc nữa là cụ cố từ bấy không cho ai ở căn nhà tranh ấy nữa, cũng không cho ai được dùng bất cứ cái gì ở trong căn nhà ấy, mặc dù nơi ấy là chỗ đẹp nhất. Cụ còn bảo ai mà muốn thì có thể đem một bó củi đến đốt căn nhà đi, và thế là căn nhà bị thiêu huỷ. Người ta chất một đống củi to trong phòng khách, mở các then cửa ra để lửa cháy cho mạnh, rồi châm lửa, gạch ngói cháy trụi hết chỉ còn ống khói lò sưởi và cái bếp lò, về sau cũng rục nốt. Lúc bà còn nhỏ vẫn còn thấy cái ống khói.
Bây giờ mới là đoạn cuối của câu chuyện. Người ta nói thỉnh thoảng vẫn thấy ông Davis và anh chàng trẻ tuổi ở trong rừng hoặc có khi cả hai cùng xuất hiện ở nơi từng là căn nhà trước kia. Có khi họ cùng nhau đi xuống con đường dốc, đặc biệt vào mùa xuân và mùa thu, bà không biết nói thế nào, mặc dù chúng ta vẫn tin chắc có những thứ gọi là ma, chỉ biết là những người quanh đó cảm thấy không yên. Nhưng bà có thể nói với các cháu điều này. Một buổi chiều tháng Ba, trước khi bà và ông nội các cháu làm đám cưới, chúng ta cùng nhau đi dạo trong rừng vừa hái hoa vừa nói chuyện giống như các đôi thanh niên thời kỳ yêu nhau, vui quá quên mất cả mình đang đi đâu. Bỗng nhiên bà chợt kêu tướng lên, ông các cháu hỏi tại sao. Vấn đề là bà thấy nhói như có con gì đốt ở mu bàn tay, bà nhìn thấy một vật đen đen, bà lấy bàn tay kia đập chết, rồi đưa cho ông xem, ông thì cái gì cũng biết, ông bảo "Anh chưa từng nhìn thấy loại ruồi nào như thế bao giờ" và mặc dù mắt thường nhìn bà chẳng thấy nó khác các con ruồi khác bao nhiêu nhưng bà tin là ông nói đúng.
Và rồi cả hai nhìn quanh, chúng ta nhận ra đang đứng ở chính cái con đường đó, ngay trước cửa căn nhà tranh xưa kia, đúng cái chỗ mà mấy người đàn ông đặt cái tay đòn đám ma trước khi họ khiêng hai xác chết ra khỏi cổng vườn. Khỏi phải nói hai ông bà vội vội vàng vàng đi khỏi chỗ đó cho nhanh, ít nhất bà cũng giục ông đi cho thật nhanh. Bà vô cùng giật mình khi thấy mình đứng ngay chỗ đó nhưng ông vì tò mò nên cứ con cà con kê nấn ná không chịu đi ngay. Có thể có cái gì đó ngoài cái bà nhìn thấy chăng? Dĩ nhiên nọc độc của con ruồi gây hại cho bà, chẳng hiểu sao suốt từ bàn tay lên đến cánh tay đều sưng tấy lên, căng tròn to tướng và đau đớn ghê lắm! Mẹ bà không làm sao cho nó khỏi được. Mãi về sau bà vú già thuyết phục cụ cho tìm ông thầy mo từ Bascombe tới xem cho nếu không thì gay go lắm. Ông ta có vẻ biết hết sự việc và nói rằng không phải bà là người đầu tiên bị như thế này. Ông ta cất tiếng "Khi mặt trời đang thu thập sức mạnh , khi mặt trời đã lên trên đỉnh cao, và khi mặt trời bắt đầu xuống dần và yếu ớt đi, thì hỡi những kẻ đang ám con đường này, tốt nhất là hãy mau mau đi khỏi!" Tại sao nói câu đó? Ông bỏ vào tay bà những gì? Ông không bao giờ cho biết. Nhưng sau đó tay bà rất mau khỏi. Từ đó trở đi bà nghe nói có nhiều người bị như bà, những năm về sau này thì ít đi dần, có lẽ những việc này cũng mất đi cùng với thời gian.
Nhưng Charles ạ, đó là lý do vì sao bà bảo cháu đừng hái quả mâm xôi cho bà hoặc ăn quả mâm xôi mọc ở con đường ấy. Bây giờ đã rõ chuyện rồi, hẳn cháu cũng chẳng muốn bà lên đó làm gì. Thôi chết, các cháu phải đi ngủ ngay đi! Cái gì Fanny? Có ánh sáng trong buồng cháu à? Tưởng tượng thôi! Thay áo ngủ ngay đi rồi đọc kinh buổi tối, nếu như cha các cháu không cần gì thì bà tí nữa sẽ lên chúc các cháu ngủ ngon. Còn cháu, Charles, nếu bà nghe thấy cháu doạ gì em cho nó sợ trên đường lên gác, bà sẽ mách cha cháu ngay lập tức và cháu sẽ biết cái gì sẽ xảy ra, như lần trước ấy."
Cửa khép lại, và người bà, sau khi dỏng tai nghe ngóng một lát, lại tiếp tục đan. Còn nhà điền chủ, vẫn đang ngủ mê mệt.



++++++++++++++++++++++++++++++++


Chương XXVI

Các bạn biết đây là mở đầu câu chuyện về ma quỷ và yêu tinh mà Mamilius, đứa trẻ hay nhất trong tác phẩm của Shekespeare, đang kể cho mẫu hậu và các phu nhân triều thần nghe thì nhà vua cùng quân lính tới bắt giam bà vào ngục. Câu chuyện còn dang dở và em không có dịp nào kể tiếp vì đã chết không lâu sau đó. Tiếp theo sẽ là như thế nào? Dĩ nhiên là Shakespeare biết và tôi dám mạnh dạn nói rằng tôi cũng biết. Nó là câu chuyện không có gì mới,dường như câu chuyện bạn đã được nghe nói tới, thậm chí đã nghe kể rồi là đàng khác. Ai cũng có thể đặt nó vào trong khung cảnh mà mình ưa thích nhất.
Và đây là khung cảnh của tôi.
Có một người đàn ông sống cạnh nghĩa trang nhà thờ. Nhà ông ta tầng dưới bằng đá, tầng trên bằng gỗ. Các cửa sổ trước trông ra phố, các cửa sổ sau trông ra nghĩa trang. Trước kia ngôi nhà là của tu sĩ giáo khu, nhưng (đó là thời nữ hoàng Elizabeth) tu sĩ có vợ, muốn nhiều phòng hơn, vợ ông ta không thích cảnh nghĩa trang ban đêm nhìn qua cửa sổ phòng ngủ. Bà ta nói nhìn thấy…ta chẳng cần biết bà ta nhìn thấy gì, tuy nhiên bà làm chồng không yên, đến khi dọn tới ngôi nhà rộng hơn ở ngoài đường phố làng mới thôi. Nhà cũ thì ông John Poole dọn tới ở, ông này góa vợ, sống có một mình, rất ẩn dật, người ta bảo ông này rất keo kiệt.

Có lẽ đúng thật, cách sống của ông ta về nhiều phương diện tỏ ra không lành mạnh. Hồi ấy, người ta thường chôn người chết vào ban đêm, dưới ánh đuốc. Cứ mỗi lần có đám ma, người ta lại thấy John Poole ra đứng ở ô cửa sổ trên gác hoặc dưới nhà để xem, tùy theo nơi nào thấy rõ hơn.
Có một đêm một bà già kia được đem đi chôn. Bà ta khá giả nhưng dân ở đấy không ưa họ bảo bà ta không phải Cơ đốc giáo. Vào những đêm Hạ chí và Lễ các Thánh, không ai thấy bà ta trong nhà cả. mắt bà ta đỏ lòm trông rất kinh hãi, đến ăn mày cũng chẳng gõ cửa nhà bà ta bao giờ. Ấy thế nhưng khi chết bà ta cũng để lại một túi tiền cho nhà thờ.


Đêm chôn bà ta thời tiết không bão tố mà yên tĩnh, đẹp trời. Nhưng rất khó kiếm người khiêng xác chết và người cầm đuốc, mặc dù bà ta để lại phí tổn chôn cất nhiều hơn bình thường. Xác chết chỉ được quấn vải chứ không nằm trong áo quan. Chẳng còn ai khác ngoài những người tối cần thiết cho việc chôn cất – và John Poole đứng xem ở cửa sổ. Tước khi mộ được lấp lại, mục sư cúi xuống ném một cái gì đó xuống thi thể bà ta – nó kêu leng keng xủng xoảng – và khe khẽ nói mấy tiếng gì đó đại loại như là "Tiền của ngươi sẽ tàn lụi cùng với ngươi", rồi ông ta mau chóng rời bước, vài người khác cũng đi nốt, chỉ còn lại một người cầm đuốc soi cho hai cha con người đào huyệt đang xúc đất lấp vào. Họ lấp không cẩn thận mấy, thành ra sáng hôm sau, đúng vào chủ nhật, ai nấy đi nhà thờ đều bảo đây là nấm mồ đắp sơ sài nhất nghĩa trang. Quả vậy, khi người trông nom nhà thờ và nghĩa địa tới xem thì quả thật thấy nó được đắp điếm cẩu thả hơn lúc bản thân ông ta rời nấm mộ nhiều.
Trong thời gian đó John Poole trông là lạ, nửa như phấn khích nửa như bồn chồn hơn trước. Nhiều tối ông ta la cà ra quán rượu, trái hẳn với thói quen thường ngày và ông ta có nói ý tứ xa xôi với mấy người hay chuyện trò với ông là hiện ông mới có ít tiền, muốn kiếm chỗ ở khá hơn. Một tối ông thợ rèn bảo "Chẳng trách được, chỗ ông, tôi cũng chẳng muốn ở chút nào. Cả đêm cứ như thấy cái gì ấy." Chủ quán hỏi thấy cái gì.
"Tôi thấy cứ như có ai đó leo lên buồng ngủ ở tầng trên, tương tự như thế" ông thợ rèn nói "Tôi chẳng biết, à mụ già Wilkins chôn tuần trước phải không?" Chủ quán bảo "Phải hỏi cảm tưởng của ông Poole. Ông Poole, giờ đây ông thấy ở đó khó chịu sao?"
"Ông Poole thì chẳng nề hà gì đâu" ông thợ rèn nói "Vì ông ấy ở đấy đã lâu rồi. Tôi chỉ nói nếu là tôi, tôi không chọn chỗ ấy. Lúc nào cũng chuông đánh, rồi sáng đuốc khi có đám ma, ngoài ra vắng vẻ quạnh quẽ, toàn những nấm mộ nằm im lặng đến kinh người, nhưng họ nói có ánh sáng ban đêm đấy. Ông Poole, ông có thấy ánh sáng ở ngoài nghĩa trang không?"


"Không, tôi chẳng thấy bao giờ" ông Poole nói với vẻ ảm đạm, gọi thêm rượu và tối đó về nhà muộn.
Đêm hôm ấy, nằm trong giường ở phòng ngủ trên gác, gió rền rĩ quanh ngôi nhà khiến ông không sao ngủ được. Ông đứng dậy băng qua phòng tới một cánh cửa tủ nằm trong tường, mở ra lấy một cái gì đó kêu loảng xoảng leng keng, cất vào túi ngực chiếc áo ngủ. rồi tới cửa sổ đứng nhìn ra nghĩa trang. Các bạn đã bao giờ thấy một tấm bảng đồng trong nhà thờ khắc hình dáng một người quấn trong khăn liệm chưa nhỉ? Nó được túm lại trên đầu một cách kỳ quặc. Có một dạng người như thế đội đất đứng lên từ một điểm rất quen thuộc với John Poole. Ông ta chạy vội vào giường, nằm im thin thít.
Có tiếng sột soạt khe khẽ ở khung cửa sổ. John Poole hoảng người, miễn cưỡng quay mặt ra nhìn. Chao ôi! Giữa ông ta và ánh trăng là chính cái dáng ấy với cái búi đầu thắt lại một cách kỳ quặc. rồi có bóng người trong phòng. Tiếng đất khô lạo sạo trên sàn và một giọng khàn khàn "Nó ở đâu nhỉ?" bước chân đi tiếp xa hơn, xa hơn, nghe yếu ớt, khó khăn, cái bóng đó thoáng ẩn thoáng hiện tới từng góc nhà, nhìn vào đó, cúi xuống nhìn các gầm ghế, cuối cùng mò mẫm tới cánh cửa tủ trong hốc tường, mở toang ra. Tiếng móng tay cạo trên mấy cái giá gỗ trống trơn. Rồi dáng hình đó bỗng lao phắt lại bên giường ông, đứng một lúc bên giường, giơ cánh tay lên và thét với giọng khàn khàn "MI ĐỂ TRONG NGƯỜI!"
Đến chỗ này, H.R.H. (His Royal Highness) hoàng tử Mamilius (người mà tôi cho rằng đã kể câu chuyện ngắn hơn thế này nhiều) hét lên một tiếng rồi quăng mình vào lòng phu nhân trẻ nhất trong số quần thần của hoàng hậu, làm cho bà này cũng hét lên một tiếng nhức óc. Ngay lúc đó H.M. (Her Majesty) hoàng hậu Hermione nắm lấy tay hoàng tử. Bà cố nén cười to lên, mà phát cho hoàng tử một cái. Hoàng tử đỏ mặt hơn là muốn khóc, sắp bị đưa vào giường ngay sau đó. Tuy nhiên nhờ sự can thiệp của các nạn nhân của cậu, lúc này đã hết sốc, cậu được phép ngồi lại cho đến giờ đi ngủ hàng ngày. Lúc này bản thân cậu cũng đã quá hồi phục và khẳng định mình còn nhiều chuyện khủng khiếp hay gấp ba như vậy và sẽ kể cho họ nghe ngay khi có dịp, rồi cậu chúc mọi người ngủ ngon trước khi đi ngủ.



+++++++++++++++++++++++++



Chương XXVII

"Và nếu như bây giờ anh đi qua phòng ngủ, anh sẽ thấy tấm khăn giường rách rưới, mốc meo cứ rập ra rập rình như sóng biển," "Rập rình vì cái gì chứ?" "Vì có chuột ở bên dưới chứ còn sao nữa?"
Nhưng có đúng là chuột không? Tôi hỏi vậy bởi vì trong một trường hợp khác thì không phải như thế. Tôi không xác định được thời gian xảy ra chuyện ấy, nhưng lúc nghe kể tôi còn rất nhỏ, người kể lại già rồi. Một câu chuyện thiếu cân xứng, nhưng đó là lời của tôi, không phải của người kể.
Nó xảy ra ở Suffolk, vùng bờ biển, nơi con đường hết nhào xuống lại đột ngột dốc ngược lên dẫn bạn đi về hướng Bắc, tới đỉnh dốc thì bên trái có một ngôi nhà cao bằng gạch đỏ, so với chiều cao thì nó hơi hẹp, có lẽ được xây vào năm 1770. Mặt tiền giữa có cửa sổ tròn đuôi nhọn vút lên trên hình tam giác. Đằng sau nhà là chuồng ngựa và văn phòng, sau nữa là vườn. Gần đó là những cây linh sam Scotland khẳng khiu, tiếp đến một dải đất dài chạy tít tắp phủ toàn kim tước. Từ cửa sổ tầng trên nhìn được ra biển ở xa xa. Trước cửa có bảng hiệu. Đó là một cái quán khá nổi tiếng một thời, nay không còn nữa.
Một người quen của tôi đã tới cái quán đó. Ông Thomson, lúc ấy là một chàng trai trẻ, vào một ngày xuân, ông từ đại học Cambridge đến, mong muốn được yên tĩnh ở một nơi không đến nỗi kém lắm để có thời gian đọc sách. Thế là ông đến quán này, chủ quán và vợ đích thân phục vụ khách khiến ông rất thoải mái, nhất là không còn khách nào khác ở trong quán cả. Ông ở một phòng rộng trên lầu một, nhìn ra con phố, xa xa là biển, chỉ tiếc nó quay ra hướng Đông, đành chịu. Ngôi nhà rằng ấm áp vì khéo xây.
Ông đã trôi qua tại đây những ngày êm đềm, không xảy ra sự kiện nào khác ngoài đọc sách buổi sáng, đi dạo khắp vùng vào buổi chiều, nói vài ba câu chuyện với người dân đến quán vào các buổi tối, cùng uống với họ thứ rượu mạnh thông dụng thời đó hoà với nước, sau đó viết hoặc đọc một lúc trước khi đi ngủ. Ông rất hài lòng và chỉ mong tình trạng này kéo dài hết cả tháng rỗi rãi của ông, bởi công việc của ông tiến triển rất tốt. Tháng Tư năm ấy lại đẹp tuyệt vời – qua đó tôi có lý do tin tưởng mục thời tiết hàng ngày trong biên niên sử Orlando Whistlecraft coi đó là "năm duyên dáng".


Trong một buổi dạo chơi dọc theo con đường lên phía Bắc, và băng qua khu đất công gọi là Bãi Hoang- đó là một buổi chiều nắng rực rỡ - mắt ông bắt gặp một vật trăng trắng cách con đường vài trăm mét về phía trái. Ông quyết định phải xem nó là cái gì. Chẳng bao lâu ông tới đứng cạnh nó. Đó là một khối vuông bằng đá trắng giống như một cái chân cột, chính giữa mặt trên là một cái lỗ hình vuông. giống hệt một khối đá khác mà ngày nay bạn có thể thấy ở Bãi Hoang Thefford. Sau khi nhận xét đánh giá nó xong, ông còn đứng ngắm cảnh vật xung quanh ít phút nữa – một hai nhà thờ, mấy ngôi nhà tranh mái đỏ và cửa sổ nhấp nháy dưới ánh mặt trời, biển cả mênh mông lấp lánh đôi khi loé sáng lên – rồi mới tiếp tục đi.
Tối hôm đó, trong câu chuyện đầu Ngô mình Sở ở quán bar, ông hỏi mọi người tại sao ở bãi hoang lại có tảng đá trắng.
"Một vật cổ lắm rồi ông ạ" chủ quán, ông Betts, đáp "Nó được đặt ở đó từ khi có thể còn chưa ra đời kia" Một người khác thì bảo "Đúng đấy" "Nó ở chỗ khá cao nhỉ" ông Thomson nói "theo tôi có lẽ ngày xưa nó làm mốc (le morse) đánh dấu cho người đi biển" "À vâng," ông Betts nói "Tôi cũng nghe nói thuyền bè trên biển đều nhìn thấy nó, nhưng nay nó vỡ tan ra cả rồi còn đâu." Người thứ ba lại nói "Những người già bảo rằng đó là dấu hiệu không may cho người đánh cá." "Tại sao thế?" Thomson hỏi. Người kia trả lời "Tôi cũng không biết nữa. Tưởng họ có ý nghĩ rất kỳ quặc, những người già ấy, tôi không hiểu bản thân họ đang nghĩ gì."
Không làm sao sáng tỏ hơn được, mấy người làng vốn đã chẳng liến thoắng gì, nay ngồi im. Sau đó có một người lên tiếng nói chuyện về việc trong làng, ngoài đồng. Người đó là ông Betts.
Thomson không phải ngày nào cũng quan tâm đến sức khoẻ bằng cách đi dạo ở đồng quê. Một buổi chiều kia đang bận viết lách đến tận ba giờ, ông vươn vai đứng dậy ra hành lang. Trước phòng ông là một phòng ngủ, sau đó đến đầu cầu thang, tiếp theo là hai phòng khác, một quay ra sau nhà, một quay về hướng Nam. Cuối hành lang có cửa sổ. Ông tới đó nhìn ra ngoài, tiếc buổi chiều đẹp. Nhưng công việc của ông lúc này đang ngập đầu ngập cổ, cho nên ông sắp phải quay về phòng, chỉ ở hành lang độ năm phút nữa thôi. Bỗng ông nghĩ: « Sao ta không dùng năm phút này ngó vào mấy phòng kia một cái xem sao. » Ông Betts chắc không phản đối nào. Còn những người trong quán, hôm nay là ngày phiên chợ họ lên thị trấn cả, chỉ còn một cô tớ gái đứng phục vụ quán rượu. Ngôi nhà hoàn toàn yên tĩnh. Trời nóng ghê lắm, ruồi vo ve sau lớp kính cửa sổ. Thế là ông đi thám hiểm. Phòng trước mặt phòng ông chẳng có gì đặc biệt ngoài một bức tranh in khắc của Bury St Edmunds, hai phòng sát bên phòng ông thì sạch sẽ, nom rất vui mắt, mỗi phòng có một cửa sổ trong khi phòng ông có hai. Còn lại một phòng phía Tây Nam, đối diện với phòng cuối cùng mà ông vừa bước vào. Phòng này khoá, nhưng không hiểu sao


Thomson ở trong tâm trạng tò mò không cưỡng lại được, ông cảm thấy không lý gì một nơi dễ dàng bước vào như thế này mà lại mang một bí mật tai hại, thế là ông về phòng mình dùng chìa khoá ấy mở thử. Không được, ông thu thập cả mấy chiếc chìa khóa của ba phòng kia, một chìa vừa vặn, ông mở ra. Phòng này có hai cửa sổ, một trông ra hướng Nam, một trông ra hướng Tây, vô cùng sáng sủa, ấm áp do có ánh nắng chiếu vào. Sàn gỗ, không trải thảm, không treo tranh, không giá kê chậu rửa mặt ,chỉ có mỗi một cái giường ở tận góc trong cùng. Giường sắt trên có đệm và một chiếc gối tròn dài ở đầu giường. Một phòng không nét đặc biệt nào như bạn có thể hình dung thấy, ấy thế mà có một thứ làm Thomson vội đóng sập cửa lại sau lưng mình. Sau đó ra cửa sổ ngoài hành lang, tựa vào đó mà run lên bần bật. Là bởi vì dưới tấm khăn phủ giường có ai nằm hay sao ấy, không những nằm, còn cựa quậy là đàng khác, có điều không phải một vật mà một người là chắc chắn, bởi vì hình cái đầu người đặt trên cái gối tròn dài nom rõ rành rành, tất cả phủ kín mít, người sống ai trùm kín đầu bao giờ. Chỉ là người chết thôi, mà lại không phải là người chết, vì cựa quậy kia mà. Giá như ông trông thấy cảnh này lúc hoàng hôn hay dưới ánh nến thì còn có thể nhầm, đàng này giữa ban ngày ban mặt, làm gì bây giờ?
Trước hết khoá cửa lại đã. Ông rón rén lại gần cửa, nín thở, cúi xuống nghe ngóng thì thấy như thể có tiếng thở nặng nhọc, nôm na giải thích như vậy. Còn thì im lặng tuyệt đối. Bàn tay run rẩy của ông vừa quay chìa trong ổ khoá thì lập tức có tiếng chân bước lò dò ra cửa.

Thomson lao vút về phòng mình như một con thỏ chạy về hang và khoá trái cửa lại mặc dù biết là vô ích. Cái mà ông nghĩ thì cửa nào, khoá nào nó chẳng đi qua được? Nhưng ông không còn biết nghĩ gì hơn trong lúc này, thực tế không thấy gì xảy ra tiếp theo, một sự chờ đợi lơ lửng đến kinh người, tiếp theo là ngờ lên ngờ xuống thật khổ sở. Dĩ nhiên ông bị hối thúc thoát khỏi cái nhà có một "người" cùng ở như vậy ngay tức khắc. Nhưng vừa hôm qua ông còn nói ở thêm một tuần nữa cơ mà! Thay đổi ý định như vậy phải chăng vì ông đã nhìn vào nơi không phải việc mình?


Hơn nữa, giả sử Betts biết về "người" đó mà vẫn không rời khỏi đây, hoặc không biết gì cả có nghĩa rằng chẳng có gì đáng sợ, hoặc chỉ biết đến mức cứ khóa cửa cái phòng lại là đủ để khỏi lo ngại về con ma – cũng không cần dẹp tiệm – trường hợp nào cũng tỏ ra không việc gì phải sợ hãi, chắc chắn ông không thể gặp chuyện không hay được. Thế thì tốt nhất là cứ ở lại.
Thế là ông ở thêm một tuần nữa, không đi qua cánh cửa đó lần nào, mỗi lần đi trên hành lang vào một giờ vắng vẻ ông đều lắng tai nghe ngóng nhưng không thấy tiếng động nào phát ra hết. Có lẽ các bạn tưởng Thomson sẽ tìm cách thăm dò ông Betts, hoặc ông mục sư, hoặc người già trong làng câu chuyện liên quan đến cái quán. Nhưng không, một khi rơi vào hoàn cảnh kỳ lạ, những con người tự tin đâm ra trầm mặc, vả lại sắp đến ngày đi khỏi đây rồi, tội gì chịu nghe người ta trả lời qua quýt. Trong những buổi đi dạo một mình, ông đề ra một kế hoạch theo ông là ít phiền toái và ép buộc đối với mọi người nhất. Chờ lúc ban ngày, lại liếc vào gian phòng lần nữa. Ông thực hiện được mà! Ông sẽ đi chuyến tàu buổi chiều, lúc bốn giờ. Đợi đến lúc hành lý đã chất lên xong chiếc xe độc mã chỉ còn chờ ông, ông sẽ viện cớ lên gác lần cuối cùng xem có bỏ quên cái gì không, và với cái chìa khoá ấy (mà ông đã tra dầu cẩn thận làm như nó sẽ khác đi hay sao ấy!) Cánh cửa sẽ lại được mở ra và đóng lại một lần nữa.

Kế hoạch này thành công. Tiền nong trả xong, chuyện trò tầm phào mấy câu trong khi hành lý được chất lên xe "Vùng này tuyệt, nơi ở rất ấm cúng, cám ơn ông Betts, hy vọng sẽ quay lại" bên kia thì "Rất mừng thấy ông hài lòng, chúng tôi đã cố gắng phục vụ tốt nhất, rất vui nếu ông trở lại, vừa qua thời tiết quá đẹp, v..v.." Rồi, "Tôi chạy lên gác liếc qua phòng xem có quên quyển sách hay cái gì không, không phiền ai, cứ mặc tôi lên, tôi trở lại sau một phút thôi." Và không tiếng động, ông mò đến cánh cửa mùi mở ra. Ảo tưởng vỡ tan! Ông suýt cười to lên ,ngồi cúi mình trên gờ giường là một ông bù nhìn! Ông bù nhìn ngoài vườn được đem vứt vào trong căn phòng bỏ trống …Nhưng, niềm vui của ông ngừng bặt. Bù nhìn đi chân không? Đầu ngả xuống vai? Cổ áo bằng sắt với dây xích quấn quanh cổ? Đứng dậy đi lại được, băng qua sàn nhà, lắc đầu, hai tay áp hai bên sườn? Và biết rùng mình run rẩy?

thay đổi nội dung bởi: APOLONG, 31-03-2009 lúc 09:49 PM. Lý do: Gộp 2 bài gần nhau
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #28  
Cũ 31-03-2009, 09:39 PM
APOLONG's Avatar
APOLONG APOLONG is offline
Điều Hành Viên
 
Tham gia: 14/11/2008
Họ và tên: Apolong
Bài viết: 677
Xã: Tình khác
Gửi tin nhắn qua Yahoo chát tới APOLONG
Default Trả lời : [Truyện Ma Kinh Dị] - Giếng Thở Than - [+16]

Sập mạnh cửa, rượt vội ra đầu cầu thang rồi nhảy cách mà xuống, sau đó ngất đi. Tỉnh dậy Thomson thấy Betts đang cúi xuống, tay cầm chai rượu với vẻ trách móc "Sao ông lại làm vậy hả ông? Quả thật ông không nên làm thế! Đối xử với những người đã tận tuỵ với ông như vậy thật không phải chút nào!" Thomson nghe thấy những lời ấy nhưng đã trả lời những gì thì ông cũng không biết nữa. Ông Betts, và cả bà Betts, rất khó chấp nhận lời xin lỗi của ông cũng như lời ông hứa không hở câu chuyện này ra làm mất danh tiếng của nhà trọ. Tuy nhiên cuối cùng họ cũng chấp nhận. Vì ra tàu không kịp nữa, Thomson sẽ lên thị trấn và ngủ lại đến ngày mai. Trước khi ông ra đi, vợ chồng ông Betts kể cho ông nghe những gì họ biết, tuy rất ít ỏi. Họ nói chính con ma xưa là chủ quán này và bị bọn cướp đường đánh ở ngoài bãi hoang. Chính ông ta bị buộc dây xích, treo lên cái giá treo cổ ở trên cái khối đá trắng mà ông đã nhìn thấy ấy! Dân chài đã đập được cái giá đó đi rồi, vì họ từ biển nhìn vào thấy nó là cá bơi đi hết. Những người ở căn nhà này trước chúng tôi nói với chúng tôi là "cứ khóa cái phòng ấy lại và để nguyên cái giường, là yên ổn không xảy ra phiền hà gì. Quả nhiên ông ta cứ ở trong ấy, không bao giờ ra khỏi nhà, mặc dù giờ đây ông ta cảm giác làm gì nữa thì chưa ai dám nói. Ông là người đầu tiên nhìn thấy ông ta kể từ khi chúng tôi đến đây.
Tôi không bao giờ để mắt tới ông ta, mà cũng không muốn. Chúng tôi cho đầy tớ ngủ trong phòng xây ngoài chuồng ngựa kia. Hy vọng ông giữ mồm giữ miệng cho. Một cái quán bị tiếng ấy thì gay go.
Lời hứa im tiếng được giữ trong nhiều năm. Cuối cùng tôi có cơ hội nghe chuyện kể này. Đó là hôm ông Thomson đến ở chơi với cha tôi, tôi phải đưa ông đến phòng ông, và lẽ ra để tôi mở cửa cho thì ông lại bước lên trước mở toang cánh cửa ra, tay cầm nến cứ đứng ở ngưỡng cửa mà nhìn săm soi vào trong phòng. Rồi ông như sực nhớ ra và bảo "Xin lỗi cháu. Có lý do của nó." Về sau ông nói lý do đó cho tôi nghe, và tôi lại vừa kể lại cho các bạn.



+++++++++++++++++++++++++++


Chương XXVIII

Vào năm 19.., có hai hướng đạo sinh thuộc một trường nổi tiếng, một người tên là Arthur Wilcox, người kia tên là Stanley Judkins. Hai người cùng tuổi với nhau, cùng ở một nhà, cùng thuộc một đơn vị và dĩ nhiên cùng là thành viên trong một đội tuần tra của hướng đạo. Về mặt hình thức, họ trông giống nhau đến mức có thể lầm lẫn, khiến cho các thầy giáo phải bực mình khi tiếp xúc với họ. Nhưng con người bên trong thì họ khác nhau không biết bao nhiêu!
Thầy hiệu trưởng bảo với Arthur Wilcox khi ngẩng lên nhìn cậu bé bước vào phòng "Này, Wilcox, em mà ở trường lâu hơn nữa thì quỹ phần thưởng của nhà trường sẽ không đủ mất! Em nhận lấy tập sao chụp đóng rất đẹp này, "Cuộc đời và tác phẩm của giám mục Ken" cùng lời ngợi khen của tôi tới em và cha mẹ ưu việt của em." Vẫn lại là Arthur Wilcox, là người mà thầy hiệu trưởng nhận xét với thầy hiệu phó khi nhác trông thấy cậu băng qua sân chơi "Thằng bé này có đôi lông mày lạ thực." "Phải, đúng là vậy" thầy hiệu phó nói "nó nói lên bộ óc hoặc là thiên tài hoặc là nước lã."
Là một hướng đạo sinh, Wilcox đạt mọi huy hiệu và danh hiệu trong các cuộc thi, huy hiệu về nấu ăn, về lập bản đồ, về cứu hộ, về nhặt giấy vụn, về đóng cửa nhẹ nhàng khi ra khỏi lớp, và nhiều huy hiệu khác nữa. Riêng về cứu hộ tôi sẽ nói vài lời sau, khi chuyển sang nhận xét về Stanley Judkins.
Các bạn sẽ không ngạc nhiên khi nghe nói ông Hope Jones trong mỗi bài hát của mình lại thêm vào một câu thơ đặc biệt để tặng cho Arthur Wilcox, hoặc thầy giáo lớp dưới đã oà khóc khi trao tặng cậu bé mề đay hạnh kiểm tốt đựng trong chiếc hộp màu đỏ thắm, được toàn thể hệ lớp ba nhất trí bầu chọn. Chỉ có mỗi một người không tán thành, đó là Judkins-mi – Judkins của tôi. Cậu ta nói rằng mình có lý do đúng đắn để làm việc ấy. Hình như cậu ta ở cùng một phòng với đội trưởng của mình thì phải. Các bạn còn ngạc nhiên thêm khi biết Arthur Wilcox, sau nhiều năm, đã là người đầu tiên và duy nhất trở thành chỉ huy trưởng hướng đạo sinh của cả trường lẫn học sinh ngoại trú. Vì nhiệm vụ quá nặng nề thêm vào việc học hành thường ngày, thành ra cậu ta bị căng thẳng thần kinh, phải nghỉ học hoàn toàn trong sáu tháng, sau đó cậu sẽ đi du lịch một vòng quanh thế giới, thầy thuốc của gia đình tuyên bố như vậy.


Kể cũng vui đấy nếu như ta được theo vết chân của cậu qua từng bậc thang đạt tới địa vị cao trọng hiện nay, nhưng đến đây, đã đủ về Arthur Wilcox rồi. Thời gian đã gấp, ta phải quay về với một vấn đề khác hẳn: sự nghiệp của Stanley Judkins – Judkins ma – Judkins yêu quý.
Stanley Judkins, cũng giống như Arthur Wilcox, cũng gây cho ban giám hiệu phải chú ý, nhưng theo cách khác hẳn. Với cậu ta, thầy lớp dưới nói với một nụ cười chẳng vui vẻ gì "Sao vậy, Judkins, lại phạm lỗi nữa hả? Cứ tiếp tục hạnh kiểm này rồi em sẽ tiếc là đã vào học tại trường cho mà xem. Hết cái này tới cái kia rồi lại cho là mình may mắn khỏi bị cái này cái khác." Vẫn là thầy hiệu trưởng nhận xét khi ông đi ngang qua sân chơi bị một quả bóng Cricket bắn mạnh vào mắt cá với một tiếng kêu cấm cẳn "Ném lại đây hộ! Cám ơn!" Thầy hiệu trưởng đứng lại xoa mắt cá chân "Tôi cho rằng thằng bé này lẽ ra nên tự mình đi nhặt lấy quả bóng thì hơn!" "Đúng thế" thầy hiệu phó nói "Nó mà đến gần tôi lúc đó à, tôi thì cho nó một quả thụi ấy chứ"
Là một hướng đạo sinh, Stanley Judkins chẳng thu được chiếc huy hiệu nào ngoài việc làm cho các thành viên của đội tuần tra khác khỏi đạt huy hiệu của họ. Thi nấu ăn thì cậu ta bị phát hiện đang nhét ngòi nổ vào chiếc lò nấu Hòa Lan của phòng thi bên cạnh. Thi vá may thì cậu ta thành công trong việc khâu hai cậu bé khác vào nhau chắc chắn đến nỗi hai người này khi đứng dậy thì có hậu quả tai hại. Thi lấy huy hiệu trật tự gọn gàng thì cậu ta trở thành nổi tiếng bởi vì trong kỳ nghỉ hạ chí, tự nhiên thời tiết nóng bức rất ghê, người ta bắt gặp cậu ngồi nhúng các ngón tay vào mực "cho nó mát". Mỗi mảnh giấy vụn cậu nhặt lên tương đương với sáu vỏ chuối hoặc vỏ cam do tay cậu vứt bừa bãi. Các bà già trông thấy cậu đến gần, chỉ đưa mắt nhìn cậu để van cậu đừng có xách hộ thùng nước của họ qua đường, hậu quả thế nào họ đã biết rõ. Nhưng trong cuộc thi đấu cứu hộ thì hạnh kiểm của


Stanley Judkins mới lộ rõ đáng trách nhất và hậu quả khôn lường nhất. Trong cuộc thực tập người ta ném một cậu bé lớp dưới, trọng lượng không nặng lắm cũng không to lớn lắm mặc nguyên quần áo, tay chân trói lại với nhau, xuống nước vùng sâu nhất ở Cuckoo Weir, và bấm giờ xem các hướng đạo sinh cứu em ấy nhanh hay chậm. Cứ đến kỳ thi này là Stanley Judkins, đúng lúc cần phải nhảy xuống nước, la lên cơn chuột rút lăn đùng ra đất kêu lên ầm ĩ. Dĩ nhiên việc này làm đãng trí các hướng đạo sinh khác đang ở dưới nước cứu đứa bé, và nếu không có Arthur Wilcox, chắc đứa bé đã chết. Vì vậy mà sau này các thầy lớp dưới phải đề nghị bãi bỏ cuộc thi này sợ tỷ lệ tử vong cao. Trong năm cuộc thi, thực tế bốn học sinh lớp dưới bị thả xuống nước không cầm cự nổi, mà ba lại là con cưng của thầy trong dàn đồng ca ở nhà thờ, cả thầy Beasley Robinson và bác sĩ Ley đều cho rằng "Lợi bất cập hại." Rồi lại còn cha mẹ các em đó không bằng lòng nữa. Không chịu điền vào tờ giấy in sẵn mà nhà trường gởi cho, có phụ huynh đã trực tiếp đến tận trường Eton gặp đích thân thầy phàn nàn.
Tóm lại đội Hướng đạo sinh chẳng tin nhiệm Stanley Judkins chút nào, nhiều lần người ta yêu cầu cậu không tham gia vào hướng đạo sinh nữa. Nhưng cuối cùng vì ông Lambart năn nỉ mãi người ta mới cho cậu có cơ hội thử vận may lần nữa.
Chúng ta thấy cậu ta trong trại hướng đạo sinh vào ngày đầu của kỳ nghỉ hạ chí ở vùng W (hay X) quận D. (hoặc Y).
Sáng hôm đó trời đẹp, Stanley và hai ba người bạn (cậu vẫn còn có bạn) nằm tắm nắng trên đỉnh đồi, hai bàn tay kê dưới cằm, nhìn ra xa xa.
"Không biết chỗ kia là cái gì ấy nhỉ?" Cậu hỏi.
"Chỗ nào?" một cậu khác nói.
"Cái gò đất ở giữa cánh đồng ấy."
"Ồ, à! Tôi làm sao mà biết được cơ chứ."
"Vậy cậu muốn biết để làm gì? Một cậu khác hỏi.
"Tớ không biết. Trông nó thích mắt vậy thôi. Nó tên là gì? Có ai có bản đồ không? Thế mà các cậu cũng tự gọi mình là hướng đạo sinh!"
"Đây có bản đồ đây này" Wilfred Pipsqueak nói, lúc nào cậu này cũng là nguồn cung cấp đủ mọi thứ "Ở đây có đánh dấu, nhưng trong đó có khoanh vòng tròn đỏ tức là ta không được đến."
"Cần gì quan tâm đến cái khoanh đỏ?" Stanley bảo. "Nhưng cái bản đồ ngu ngốc của cậu không có tên nó."
"Vậy cậu thử hỏi ông già đang đi đến kia xem sao?" "Ông già" ở đây là một người chăn cừu lớn tuổi đang leo lên đồi đàng sau lưng họ.


"Chào các cậu" ông ta cất tiếng "Ngày hôm nay thật đẹp cho hoạt động của các cậu!"
"Vâng, cám ơn ông" Algernon de Montmorency đáp với thái độ lễ phép của người nước này. "Ông có thể bảo cho biết cái gò ở xa xa kia gọi là gì không? Bên trong có gì?"
"Dĩ nhiên là được" người chăn cừu nói "Đó là giếng Thở Than, nhưng tên gọi chẳng bận gì đến các cậu."
"Ở đó có cái giếng ạ?" Algernon nói "Ai dùng giếng đó?" Người chăn cừu cười "Từ khi tôi sống ở đây bao nhiêu năm , chẳng thấy người nào hay con vật nào sử dụng giếng ấy."
"Thế thì hôm nay tôi sẽ lập một kỷ lục mới, tôi sẽ đến đó lấy nước về pha trà."
"Chết, xin cậu!" người chăn cừu nói, giọng hoảng hốt "Đừng nói vậy! Chẳng lẽ các thầy giáo không bảo các cậu đừng có đến đấy hay sao? Họ phải bảo chứ?"
"Có đấy" Wilfred Pipsqueak nói.
"Câm mồm, đồ ngu!" Judkins bảo. "Liên quan gì? Thế nước có sạch không? Dù gì đi nữa cứ đun sôi là ổn hết."
"Tôi không biết nước có làm sao không" Người chăn cừu nói "Tôi chỉ biết là ngay cả con chó trước đây của tôi cũng không đến đấy chứ đừng nói đến ai có chút đầu óc!"
"Điên!" Stanley bảo "Đến đấy thì có hại gì?"
"Ba người đàn bà và một người đàn ông." Người chăn cừu nói một cách trang nghiêm "Các cậu hãy nghe tôi bảo đây, tôi là tôi biết rõ vùng này. Mười năm nay cả cánh đồng không có lấy một con cừu, một nhành lúa – mặc dù đất rất màu mỡ. Cứ nhìn xem, chỉ toàn bụi mâm xôi, các nhánh chồi và cây cỏ linh tinh. Các cậu có ống nhòm kia mà" Ông ta bảo Wilfred Pipsqueak "Cậu nhìn xem rồi nói cho họ biết."
"Phải," Wilfred nói "nhưng tôi nìhn thấy mấy con đường mòn. Phải có ai lui tới nơi đó chứ!"
"Đường mòn à? Thế thì tôi tin cậu đấy. Bốn con đường mòn cho ba người đàn bà và một người đàn ông."
"Ông nói thế nghĩa là gì?" Lần đầu tiên Stanley quay lại nhìn vào người chăn cừu (cậu ta vô lễ vẫn quay lưng vào ông ta mà nói).
"Còn nghĩa gì nữa. Ba người đàn bà, một người đàn ông chứ sao?"
"Họ là ai?" Algernon hỏi "Họ đến đấy làm gì?"
"Có lẽ mấy người có thể nói được với các cậu đó là ai" người chăn cừu nói "nhưng họ đã qua đời từ trước khi tôi sinh ra rồi. Và vì sao mấy người ấy đến đó thì con cái họ càng không thể nói ra được, ngoài việc nghe bảo đó toàn những người xấu lúc còn sống."
"Lạy Thánh George, toàn chuyện kỳ quặc!" Algernon và Wilfred thì thầm, riêng Stanley tỏ vẻ khinh bỉ và phách lối:


"Sao? Ông cho họ là những người chết rồi sao? Vớ vẩn! Có điên thì mới tin lời ông nói. Thử hỏi ai là người đã mục kích họ nào?"
"Các cậu quý tộc trẻ tuổ ơi! Chính tôi đây là người đã trông thấy họ chứ ai! Ngay gần cái đồi kia chứ đâu! Giá con chó cũ của tôi còn sống, nó sẽ nói cho các cậu nghe là cả nó lẫn tôi cùng trông thấy một lúc. Hôm ấy độ bốn giờ chiều, thời tiết cũng giống hôm nay. Tôi nhìn thấy từng người một, thò ra khỏi bụi cây, đứng dậy, theo con đường mòn của riêng mình, chầm chậm đi vào chỗ mấy cây to ở trung tâm nơi có cái giếng."
"Trông họ như thế nào hả ông?" Cả Algernon và Wilfred hăm hở hỏi.
"Rách rưới tả tơi, chỉ có xương trắng hêu, cả bốn. Nghe tiếng lách cách khi họ đi. Đi rất chậm, nhìn ngang nhìn ngửa."
"Mặt mũi họ thế nào? Ông có trông thấy không?"
"Làm sao còn gọi là mặt được! Hình như có thấy răng thì phải!"
"Trời ơi!" Wilfred kêu lên "Thế họ làm gì khi đến cái cây?"
"Tôi không biết" người chăn cừu nói "Có dám đứng ở đó lâu đâu mà nếu có cũng chỉ cốt để tìm con chó. Nó đi mất tiêu! Mà trước kia không bao giờ nó rời tôi. Sau cùng khi thấy được nó thì nó không còn nhận được ra tôi, định nhào lên cắn cổ tôi. Tôi phải kiên nhẫn nói với nó rất lâu, nó dần dần nhận ra giọng tôi mới leo lên người tôi như đứa trẻ con muốn xin lỗi. Không bao giờ tôi muốn nó ở tình trạng như thế, kể cả khi tôi có con chó khác."
Đến đây, con chó của ông ta, chạy vòng làm quen với các cậu hướng đạo, ngẩng lên nhìn chủ, như tán thành lời chủ.
Mấy cậu hướng đạo suy nghĩ một lúc, sau đó Wilfred hỏi:
"Tại sao gọi là giếng Thở Than?"
"Nếu các cậu ở quanh đây lúc chiều tối, thì chẳng cần hỏi tại sao" Người chăn cừu chỉ nói thế.
"Tôi thì tôi chẳng tin một lời nào" Stanley Judkins bảo "Có dịp tôi sẽ đến chỗ đó. Không đến thì tôi chỉ là thằng chết tiệt!"
"Ra cậu không tin tôi? không tin các thầy giáo nữa? cậu không có ý thức chút nào. chẳng lẽ tôi nói dối sao? Giá có được đồng sáu xu nếu ai đi vào đó tôi cũng chẳng muốn. Để một người trẻ như thế này uổng mạng thì sao đành lòng!"


"Tôi sẽ cho ông nhiều hơn đồng sáu xu nhiều," Stanley nói "Whisky nữa là khác để khỏi phải bảo người khác đừng tới đó. Chuyện vớ vẩn! Thôi các cậu , ta đi về!"
Hai cậu kia nói "Chào ông, cám ơn ông" còn Stanley không nói gì. Người chăn cừu nhún vai, lặng lẽ đứng nhìn theo một cách buồn bã.
Trên đường về mấy cậu bàn tán xôn xao. Stanley bảo nếu cậu ta không đến giếng Thở Than thì sẵn sàng để cho bất cứ ai gọi mình là điên cũng được.
Tối đó, cùng nhiều thông báo khác, ông Beasley Robinson hỏi các bản đồ đã được khoanh đỏ một nơi nào đó chưa và nhắc nhở mọi người "Không được đi vào trong vùng đó."
Nhiều tiếng hỏi – trong đó có tiếng Stanley Judkins "Tại sao?" "Không được! Thế thôi," ông Beasley Robinson nói "các em không thoả mãn với câu trả lời ấy tôi cũng không nói gì hơn được."
Ông ta quay lại ông Lambart khẽ nói gì đó rồi tuyên bố "Tôi chỉ có thể nói là tôi có nhiệm vụ cảnh báo hướng đạo sinh tránh xa cánh đồng đó. Dân làng ở đây rất thích cho chúng ta cắm trại, ít nhất ta cũng phải làm ơn cho họ. Chắc các em đồng ý?"
Mọi người đều nói "Vâng ạ" trừ Stanley Judkins lẩm bẩm "Làm ơn cho họ ấy à? Còn lâu!"
Đầu buổi chiều hôm sau người ta nghe thấy cuộc đối thoại sau đây:
"Wilcox, số người trong lều em đủ không?"
"Không ạ, không có Judkins."
"Thằng bé này là nỗi phiền muộn lớn nhất của chúng ta! Theo em nó đi đâu?"
"Dạ em không biết ạ."
"Có ai biết không?"
"Theo em, cậu ấy đi đến giếng Thở Than."
"Ai nói đó? Pipsqueak hả? Đến giếng Thở Than à? Là đâu vậy?"
"Ở ngoài cánh đồng hoang, nơi có lùm cây cao ở giữa ấy ạ."
"Em muốn nói bên trong cái vòng đỏ ấy ư? Trời đất ơi! Làm sao em nghĩ vậy?"
"Hôm qua cậu ấy nhất định tỏ ra muốn đến đó, chúng em gặp một người chăn cừu, ông ta kể nhiều chuyện, khuyên chúng em đừng có đến đó, nhưng Judkins không tin, khăng khăng sẽ đến."
"Ngốc quá" ông Hope Jones bảo "Nó có mang theo cái gì không?"
"Có mang theo sợi dây thừng và một cái bi đông. Chúng em đã bảo là cậu ta điên."
"Đồ súc sinh! Quỷ tha ma bắt gì mà nó phải tức bực với những câu chuyện như vậy! Cả ba em, phải đi cùng tôi theo nó ngay! Những kỷ luật đơn giản như thế cũng không theo là thế nào? Thế người chăn cừu kể những gì? Thôi, ta vừa đi vừa nói."


Và thế là họ ra đi, Algernon và Wilfred vừa đi vừa kể nhanh, hai người kia lắng nghe ngày càng chăm chú. Cuối cùng họ tới đỉnh đồi nhìn xuống cánh đồng mà hôm qua ông chăn cừu nói bao quát được toàn khu vực kể cả cái giếng trên đám cỏ, quanh có các cây linh sam Scotland cùng bốn con đường mòn uốn lượn quanh các bụi cây hoang gai góc, tất cả rõ mồn một.

Ngày hôm đó thời tiết thật đẹp, có nắng ấm. Biển trông không khác gì một tấm kim loại. không một làn gió. Leo lên đỉnh đồi xong họ đều mệt đứt hơi, ngồi lăn ra cỏ.
"Không thấy nó đâu" Ông Hope Jones nói "Nhưng ta hãy dừng ở đây đã, các em cũng mệt rồi chứ đừng nói đến tôi. Thử chăm chú nhìn khắp nơi xem…kìa, có cái gì lay động ở bụi cây kia kìa…"
"Vâng" Wilcox nói "Em cũng nhìn thấy. Nhưng…không phải cậu ấy. Có một người nào đó thò đầu ra.."
"Hình như thế, tôi không dám chắc."
Im lặng một lát, rồi:
"Đúng là cậu ấy rồi," Wilcox nói "đang leo qua hàng rào phía bên kia. Mọi người có nhìn thấy không, cầm cái gì loé sáng ấy, chắc cái bi đông."
"Đúng cậu ấy rồi" Wilfred nói "đang tiến thẳng tới các cây cao. Chắc rồi" Vừa vặn Algernon đang cố hết sức nhìn, kêu thét lên:
"Cái gì trên con đường mòn kia? Cả bốn kìa! Người đàn bà! Ôi, đừng để tôi nhìn vào bà ta!" nói rồi cậu lăn đùng ra ,tay bám chặt lấy cỏ, rúc đầu vào cỏ.
"Đừng làm thế!"
Mặc ông Hope Jones gào to, vô tác dụng. Ông bèn bảo "Để tôi đi xuống dưới đó. Wilfred cứ ở đây trông Algernon, còn Wilcox chạy nhanh về trại gọi mọi người đến cứu."
Cả hai người chạy đi, Wilfred ở lại với Algernon, cố tìm cách trấn tĩnh cậu bé và cũng chẳng sung sướng gì hơn cậu này. Lúc lúc cậu lại từ trên đồi nhìn xuống cánh đồng. Cậu thấy ông Hope Jones nhẹ nhàng tiến lên và rồi, cậu vô cùng ngạc nhiên thấy ông ta dừng lại, ngẩng đầu lên rồi nhìn quanh, sau đó co cẳng rẽ ngoặt vào ngay một góc! Tại sao thế nhỉ? Cậu nhìn kỹ xuống cánh đồng, một dáng hình khủng khiếp mặc đồ đen rách rưới lộ ra những mảng trắng toát, cái đầu cắm vào thân bằng một cái cổ mỏng dính dài ngoẵng che một nửa bởi cái mũ không ra hình thù nào. Dáng hình này vẫy vẫy người đến cứu có ý bảo đi xa ra, giữa hai dáng hình không khí hầu như lung linh và run rẩy, cậu chưa từng thấy bao giờ, và càng nhìn cậu càng cảm thấy đầu óc mình chao đảo, mờ mịt lẫn lộn mà cậu đoán là bị ảnh hưởng của một người nào đó ở gần. Cậu vội nhìn Stanley Judkins đang bước rất nhanh tới đám cỏ theo đúng điệu hướng đạo sinh và đang thận trọng tránh giẫm phải các cành cây gãy và các nhánh mâm xôi. Rõ ràng là tuy không trông thấy gì, cậu ta vẫn linh cảm có thể có bẫy do đó đi lại rất nhẹ. Wilfred không những nhìn thấy thế, còn nhìn thấy nhiều hơn, tim cậu đột nhiên thắt lại một cách kinh hoàng khi bắt gặp một hình người đang chờ đợi giữa các cây cao, rồi lại thêm một người nữa – dáng hình ghê tởm màu đen – đang từ con đường mòn từ phía bên kia. Tệ hại nhất là người thứ tư – lần này thì rõ ràng là một người đàn ông – nhô lên khỏi các bụi cây ngay phía sau Stanley có vài mét. Sau đó bò vào con đường mòn với vẻ đau đớn. Vậy là tất cả các ngả đường đều đã bị chặn.


Wilfred lúc này không còn tỉnh trí nữa, xô tới Algernon và lắc mạnh cậu này "Dậy đi! Gào to lên! Gào to nhất có thể! Trời ơi, giá mà chúng ta có cái còi!"
Algernon bình tâm lại "Còi đây, có lẽ Wilcox đánh rơi."
Thế là một người thổi còi, một người hét to lên, vang trong không khí mong manh. Stanley nghe thấy, dừng lại, nhìn quanh. Và lúc ấy thì có một tiếng kêu thét còn xé tai và khủng khiếp hơn tiếng hét từ trên đồi. Muộn rồi! Hình người đàng sau Stanley bổ nhào vào cậu ta, tóm lấy thắt lưng cậu ta. Kẻ đang đứng thì vẫy vẫy cánh ta có vẻ phấn khởi. Kẻ đang lò dò giữa các cây to cũng nhào tới, bà này cũng dang tay ra sẵn sàng nắm lấy ai chạy qua, còn người ở xa nhất thì bước nhanh tới gật đầu hân hoan. Hai cậu bé nhìn cảnh ấy trong im lặng hãi hùng, nín thở xem cuộc vật lộn giữa người đàn ông và nạn nhân. Stanley dùng bi đông mà quật vì chỉ có vũ khí ấy. Chiếc mũ đen của ông này vỡ, rơi xuống lộ ra cái sọ trắng hếu trên có mấy mảng tóc. Lúc này người đàn bà tới gần cái đôi đang đánh nhau, kéo chặt sợi dây thừng treo ở cổ Stanley. Cả hai mạnh hơn Stanley nhiều, tiếng kêu thét giảm dần, cả ba đi vào trong đám cây linh sam.
Hình như đoàn cứu nạn đã tới. Ông Hope Jones lúc nãy đang đi nhanh dừng lại, quay ngoắt vào chỗ rẽ, nay dụi mắt, lại chạy ra cánh đồng. Hơn thế nữa khi hai cậu bé quay lại nhìn thì không những cả một đội quân từ trái đã tiến tới đỉnh đồi bên kia mà còn thấy cả người chăn cừu từ đồi của ông ta chạy xuống. Họ gọi, vẫy ông ta, chạy về phía ông ta. Ông ta bèn chạy nhanh hơn.
Một lần nữa hai cậu bé nhìn về phía cánh đồng. chẳng còn thấy gì cả. Hình như có cái gì giữa các cây cao hay sao ấy. Hoặc giả sương mù giữa đám cây? Rồi ông Hope Jones leo qua hàng rào nhảy vào giữa các bụi cây con.
Người chăn cừu đứng bên các cậu bé, thở hổn hển. Hai cậu chạy tới, nắm chặt cánh tay ông ta. "Họ bắt cậu ấy rồi. Đem vào trong lùm cây rồi!" Chúng chỉ nói đi nói lại có thế.
"Cái gì cơ? Thế ra cậu ấy cứ đi vào đó sau khi tôi đã kể mọi chuyện ngày hôm qua? Tội nghiệp thằng bé! Tội nghiệp thằng bé!" Nói đến đấy thì đoàn cấp cưú đến nơi, trao đổi vội vã vài lời rồi chạy xô cả xuống cánh đồng.
Vừa tới cánh đồng thì thấy ông Hope Jones đi ra, vai vác cái xác của Stanley Judkins. Ông chặt cành cây nơi nó bị treo lủng lẳng. Xác không còn một giọt máu nào.
Ngày hôm sau ông Hope Jones cầm một chiếc rìu xông ra với quyết tâm chặt hết lùm cây cao và đốt hết các bụi cây thấp. Ông quay về, một chân bị chém, rìu thì gẫy làm đôi. Ông không sao đánh lửa được, không chặt được bất cứ cái cây nào.
Tôi nghe nói hiện tại dân ở giếng Thở Than gồm ba phụ nữ, một đàn ông và một cậu bé.
Algernon và Wilfred bị sốc nặng. Cả hai dời trại ngay và sự kiện đã trùm bóng đen lên những người còn lại tuy chỉ thoáng qua. Một trong những người đầu tiên hồi phục linh hồn là Judkins yêu quý.
Thưa quý vị, sự nghiệp của Stanley Judkins là như thế đấy. Và cả một sự nghiệp của Arthur Wilcox nữa. Tôi tin là chưa ai kể chuyện này bao giờ. Nếu như có một bài học nào đó thì tôi tin là bài học đó đã quá rõ ràng, mà nếu không có, thi tôi cũng chẳng biết làm thế nào hơn.



++++++++++++++++++++++++++


Chương XXVIII (Chương Cuối)

ôi vốn chẳng có nhiều kinh nghiệm cũng chẳng nhiều kiên nhẫn để viết truyện – tôi chủ yếu nghĩ về các truyện ma vì chẳng bao giờ quan tâm đến các thể loại truyện khác. Đôi lúc tôi thấy vui vui khi nghĩ đến những truyện thỉnh thoảng thoáng qua trong tâm trí, nhưng chưa bao giờ được thể hiện ra một cách thích đáng. Chưa bao giờ thích đáng. Thực tế tôi đã viết một số truyện nhưng còn nằm trong ngăn kéo hay đâu đó. Xin mượn ở đây lời Sir Walter Scott thường trích dẫn "Cứ nhìn lại thì không dám nữa." Chúng không đủ hay. Mặc dù trong một vài truyện cũng có ý tưởng đấy, nhưng những ý tưởng đó không chịu đâm hoa kết trái trong môi trường tôi định ra cho chúng. Có lẽ nếu để in ra chúng phải được chuyển sang thể loại khác. Hãy để tôi được nhắc lại chúng ở đây vì lợi ích (đây là cách nói) của một người nào đó.
Có truyện một người đàn ông đi du lịch trên một chuyến tàu hoả ở Pháp. Ngồi trước mặt chàng là một phụ nữ Pháp luống tuổi với ít ria mép thông thường mà vẻ mặt kiên quyết. Chàng không có gì để đọc ngoài quyển tiểu thuyết không còn hợp thời mà chàng chỉ mua vì đóng bìa đẹp – tiêu đề là Madame de Lichtenstein. Nhìn mãi qua cửa sổ cũng chán, chàng bắt đầu buồn ngủ khi lật giở các trang sách và dừng lại ở một đoạn đối thoại giữa hai nhân vật trong sách. Hai nhân vật nói về một phụ nữ quen, sống trong một ngôi nhà lớn ở Marcilly-le-Haynes. Ngôi nhà được mô tả và – ta đã đến điểm chính – việc mất tích của chồng người đàn bà được nhắc đến. Cả tên bà ta cũng được nhắc đến khiến các bạn độc giả không thể nào không nghĩ rằng chàng có biết cái tên này vì nó liên hệ


tới một vài mối quan hệ khác của chàng. Vừa vặn tàu dừng lại một ga miền quê, anh chàng đi du lịch của chúng ta giật mình tỉnh dậy – quyển sách vẫn mở dưới tay – người phụ nữ ngồi trước mặt xuống tàu, xách theo túi xách trên có tên hình như ở trong cuốn tiểu thuyết thì phải. Chàng đi tiếp đến Troyes, ở đây chàng làm nhiều cuộc đi dạo chơi và có một lần chàng – vào giờ ăn trưa, phải tới Marcilly-le-Haynes. Khách sạn nơi quảng trường lớn ở ngay trước mặt một ngôi nhà có ba trán cổng [1] trông hơi có vẻ khoe khoang. Từ cửa đi ra một người đàn bà ăn vận lịch sự mà chàng đã từng trông thấy trước đây. Chàng nói chuyện với người hầu bàn. Vâng,đó là một phu nhân góa chồng. Hoặc là người ta tin vậy. Không ai hiểu chuyện gì đã xảy ra với chồng bà ta. Đến đây chúng ta mắc. Dĩ nhiên torng quyển tiểu thuyết chàng đọc làm gì có đoạn đối thoại mà chàng tưởng đã đọc trên tàu.
Rồi đến một truyện dài về hai sinh viên chưa tốt nghiệp, về dự lễ Giáng sinh tại một nhà nghỉ ở miền quê của một trong hai người. Một ông chú là người sẽ thừa kế địa sản sau này, sống ngay gần đó. Một thầy tu Roman, có học, nói năng có vẻ tin được, sống cùng với ông chú, cố làm hai chàng vui lòng. Sau khi ăn cơm với chú là những cuộc đi dạo lúc đêm khuya để về nhà. Họ luôn bị quấy rối khi đi qua các bụi cây. Có nhiều vết lạ hình thù không rõ ràng để lại trên tuyết ở quanh nhà, sáng mới phát hiện ra. Có những cố gắng để lùa đi anh bạn cùng ở, cô lập người chủ sở hữu, dụ anh ta ra ngoài lúc đêm tối. Cuối cùng vị cha cố thất bại và chết. Cái chết quen thuộc của một nạn nhân khác được ngăn cản.
Cũng có truyện hai sinh viên của Đại học King Cambridge thế kỷ mười sáu (thực tế bị đuổi khỏi trường do yêu thuật) đêm đêm đi thăm một mụ phù thủy ở Fenstanton, khi đến chỗ rẽ đi Lolworth trên đường Huntington gặp một người bạn đường dẫn theo một dáng người quen thuộc mà hình như họ có biết. Đến Fenstanton, làm sao họ biết được mụ phù thủy đã chết và khi ngồi trên ngôi mộ của mụ, họ đã trông thấy gì.
Lại còn một số truyện đã được viết ra từng phần, những truyện chỉ đôi khi thóang qua trong trí nhưng chưa thực sự thành hình. Thí dụ, người đàn ông ngồi trong phòng (dĩ nhiên trong óc có một ý tưởng nào đó) một buổi tối, bỗng giật mình vì một tiếng động nhẹ, vội quay lại thì nhìn thấy một bộ mặt người chết ở giữa hai tấm rèm cửa sổ. Bộ mặt tuy đã chết, nhưng hai mắt vẫn còn sống động. Anh ta vùng ra cửa sổ, vạch mạnh tấm rèm ra: một mặt nạ bằng bìa cứng rơi xuống sàn. Chẳng thấy ai. Hai con mắt chỉ là hai cái lỗ giấy bồi. Biết làm gì bây giờ?
Lại có những cái vỗ vai khi bạn đang rảo bước về nhà trong đêm tối, tưởng tượng trước đến gian phòng ấm cúng có lò sưởi, và quay lại, bạn trông thấy một khuôn mặt hoặc một người không mặt?


Cũng như vậy, khi ông Ác định tiêu diệt ông Thiện, nấp trong bụi cây dày bên vệ đường để nã súng hạ ông ta, thì đúng lúc ông Thiện cùng một người bạn vô tình nhập bọn đi qua, lại thấy ông Ác tắm mình trong máu ở giữa đường. Ông ta kể bạn nghe đã thấy gì chờ đợi mình trong bụi cây – thậm chí nó vẫy gọi ông ta – để ông ta và bạn đừng chú ý. Có nhiều khả năng xây dựng tiếp câu chuyện nhưng mất công lắm, quá sức tôi.
Lại cũng có nhiều tình huống có thể xảy tới khi người ta kéo cái pháo hoa giáng sinh để đọc được lời nhắn ghi trong câu châm ngôn trên đó. Họ vội vàng rời khỏi buổi liên hoan ra về lấy cớ thoái thác là do bị khó tiêu, thực ra đúng hơn là bị ràng buộc bởi một cam kết trước đây đã lâu.
Xin mở ngoặc, nhiều thứ rất thông thường có thể trở thành vật chuyên chở sự báo thù đến cho người ta, nếu không phải báo thù thì cũng là ác tâm hiểm độc. Hãy cẩn thận khi bạn cầm lên một cái gói trên lối đi trong vườn hoa nhất là khi nó chứa tóc và móng tay. Đừng bao giờ đem nó vào nhà. Cũng có thể không thành phố chỉ có một cái gói đó đâu…(Nhiều tác giả thời nay tin rằng chỉ cần những vật rất nhỏ có thể đưa đến một truyện viết có hiệu quả. Thế thì dễ rồi – ta cần thêm một số những vật nhỏ ấy…).
Đêm khuya hôm thứ hai có một con cóc nhảy vào phòng giấy của tôi, và mặc dù xem ra không có cái gì có thể liên hệ tới sự xuất hiện này được, tôi vẫn cảm thấy khôn ngoan ra thì đừng nên nghiền ngẫm những đề tài có thể khiến tâm trí ta nhận thấy sự có mặt của những kẻ đến thăm còn đáng sợ hơn. Nói vậy là đủ.
Chú thích :
[1] Trang trí mặt trước cổng hình tháp có những mặt nghiêng với nhiều đường chỉ dội lên một hình cánh cung, giống như kiểu trang trí gô tích ở cửa nhà thờ


+++++++++++++++++++

Hết...!

mời mọi người ghé qua mục lục để đọc truyện mới...

thay đổi nội dung bởi: APOLONG, 31-03-2009 lúc 09:50 PM. Lý do: Gộp 2 bài gần nhau
Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời


Ðang đọc: 2 (0 thành viên và 2 khách)
 

Quuyền Hạn Của Bạn
Bạn không thể tạo chủ đề mới
Bạn không thể gửi trả lời
Bạn không thể gửi files đính kèm
Bạn không thể sửa bài của bạn

BB code is Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt

Chuyển đến

Chủ đề liên quan
Ðề tài Người Gửi Chuyên mục Trả lời Bài mới
[Hot teen] [Truyện Kinh Dị] - Vũ Điệu Quỷ - [+15] APOLONG Teen Yên Thành 13 02-04-2009 01:02 AM
[Hot teen] [Truyện Ma Kinh Dị] - Lưỡi Dao Bị Nguyền Rủa - [+15] APOLONG Teen Yên Thành 8 29-03-2009 08:28 PM


Hiện tại là 12:14 AM (GMT +7)


Diễn đàn Người Yên Thành Online
Nội dung được các thành viên xây dựng và tổng hợp
Powered by vBulletin® Copyright ©2000 - 2024, Jelsoft Enterprises Ltd.